.

.

Tư vấn marketing

Sản phẩm và dịch vụ của bạn mang lại giá trị gì?

Phong thủy khai vận

Khai thông khí vận, sức khỏe - tài lộc - sự nghiệp

Quý Hải | Nhà tư vấn

Thực tế - tinh tế khi ứng dụng trong cuộc sống

Khai vận năm Bính Thân 2016

Sức khỏe - Sự nghiệp - Tài lộc để đảm bảo một cuộc sống Hạnh Phúc!

Cung chúc Tân Niên

Vạn sự như ý, đại cát đại lợi!

Vững Xây Tổ ấm

Đàn ông xây nhà - Đàn bà xây tổ ấm!

Vững Xây Cuộc Sống

Đất lành chim đậu - An cư lạc nghiệp!

Kuwait xây sân bay đẳng cấp thế giới giữa... sa mạc

[TGKT] Foster + Partners - Công ty kiến trúc chịu trách nhiệm thiết kế trụ sở mới cho Apple tại Cupertino mới đây đã giới thiệu bản thiết kế rất độc đáo và hấp dẫn của họ về nhà ga của sân bay quốc tế Kuwait. 

Theo thiết kế, sân bay quốc tế Kuwait là một khối hình ba mặt, dạng tam giác với ba cạnh lõm, ba mặt của nhà ga này có chiều dài khoảng 1,2km, chúng sẽ tạo nên một không gian bên trong với chiều cao 25m. Thiết kế sân bay Kuwaitcủa Foster + Partners không chỉ giúp tăng diện tích của toà nhà mà còn được cho là một tác phẩm nghệ thuật có một không hai. 

Tọa lạc ở trung tâm của một sa mạc, tòa nhà có kiểu dáng vừa hiện đại, vừa mang tính truyền thống vì nó được mô phỏng theo hình dáng của những con thuyền buồm Dhow nổi tiếng của Kuwait. Vì vị trí của sân bay ở một nơi có nhiệt độ quanh năm vào loại cao nhất trên thế giới nên không gian bên trong của nhà ga còn phải được thiết kế để giảm độ nóng và luôn duy trì nhiệt độ lý tưởng so với môi trường bên ngoài. Khi đi vào hoạt động, sân bay quốc tế Kuwait sẽ đón 13 triệu lượt khách mỗi năm và có đủ khả năng để đón nhận 50 triệu lượt khách trong tương lai.

Nhà như cổ tích: Ngắm mà thèm

[TGKT] Ngôi nhà là tập hợp ý tưởng của rất nhiều nghệ sĩ nổi tiếng khác nhau trên thế giới.

Ngôi nhà được xem là một công trình kiến trúc độc đáo và duy nhất bằng gỗ với ý tưởng trang trí các bức tường bằng nghệ thuật chạm trổ tinh xảo mang phong cách của giới nhà giàu vùng Siberia.

Với những khối gỗ thông lớn, rất nhiều đồ đạc trong nhà sử dụng loại nguyên liệu này được chạm khắc để có được sự bền vững cũng như tinh tế nhất. Ngoài ra, nhờ vào kiến trúc độc đáo lấy ý tưởng hợp hòa với thiên nhiên mà ngôi nhà luôn tràn ngập ánh sáng mặt trời – tài sản quý giá của đất nước Sebiria. Ngôi nhà là tập hợp ý tưởng của rất nhiều nghệ sĩ nổi tiếng khác nhau trên thế giới, mang đến những phong cách trang trí nội thất khác nhau khiến nó được mệnh danh là “Câu chuyện cổ tích của người Sebria”.

Nhà thờ trong suốt đầu tiên trên thế giới

[TGKT] Mới đây, hãng thiết kế kiến trúc Gijs Van Vaerenbergh của hai kiến trúc sư trẻ nổi tiếng người Bỉ Pieterjan Gijs và Arnout Van Vaerenbergh, đã hoàn thành 1 tác phẩm kiến trúc độc đáo - một nhà thờ trong suốt đầu tiên trên thế giới - tại Haspengouw của Bỉ.

Đây là một tòa nhà có độ cao 10m với 100 tấm thép mỏng được đặt cố định theo chiều ngang, gắn trên 2000 cột nhỏ chịu lực, được ghép lại với nhau thành chiếc khung nhỏ. Đây là một phần của dự án nghệ thuật đầy tham vọng với mục đích biến vùng Flemish ở Haspengouw thành một khu vực nghệ thuật trong vòng 5 năm tới.

Khách sạn bong bóng

Khách sạn bong bóng
[TGKT] Tại Pháp có một khách sạn được thiết kế đặc biệt giúp du khách có thể ngắm được toàn cảnh bầu trời đêm. Chỉ chiếm một diện tích nhỏ nhưng khách sạn này đã nhận được nhiều sự quan tâm từ những người muốn đi tìm cảm giác mới mẻ và thoát khỏi sự ồn ào của các đô thị lớn.

Đối với những ai muốn thoát khỏi không khí ồn ào của các đô thị và được ngủ dưới ánh trăng sao thì đây chính là địa chỉ lý tưởng. Căn phòng hình quả bóng có đầy đủ các tiện nghi của một khách sạn và du khách có thể quan sát thấy toàn bộ bầu trời.

20 tòa nhà chọc trời ấn tượng nhất thế giới

[TGKT] Kênh thông tin văn hóa du lịch CNNGo của hãng CNN vừa công bố kết quả bình chọn 20 tòa nhà chọc trời ấn tượng nhất thế giới, trong đó, tòa tháp Bitexco ở Việt Nam được xếp vị trí thứ 5.

Theo CNNGo, tiêu chí ấn tượng của cuộc bình chọn không phải chỉ là chiều cao mà còn là tính biểu tượng đặc trưng của tòa nhà đối với quốc gia và thế giới.

CNNGo giới thiệu tòa nhà Bitexco có hình dáng của búp sen đồng thời là tòa nhà cao nhất TP HCM ở thời điểm hiện tại. 

Dưới đây là danh sách 20 tòa cao ốc ấn tượng nhất trên thế giới:

ALEXANDRE DE RHODES CÓ PHÁT MINH RA CHỮ QUỐC NGỮ?(*)

ALEXANDRE DE RHODES
CÓ PHÁT MINH RA CHỮ QUỐC NGỮ? (*)

Alain Guillemin
(TS. Viện Nghiên cứu Xã hội học Địa Trung Hải, Trung tâm nghiên cứu khoa học Pháp)

Bản dịch của Ngô Tự Lập 

Tháng 5 năm 1941, chính quyền thực dân dựng một đài tưởng niệm tại một góc nhỏ phía Đông Bắc hồ Hoàn Kiếm, cạnh đền Bà Kiệu. Đó là một tấm bia đá cao 1,7m, rộng 1,1m, dày 0,2m, trên có khắc, bằng các thứ chữ Quốc ngữ, Hán và Pháp, công đức của linh mục dòng Tên Alexandre de Rhodes. Tin này được tờ «Tân Tri», số 13 Tháng 6 năm 1941, thông báo như sau: "…Ông Alexandre de Rhodes đã sống lại với dân Hà Thành trong lễ khánh thành đài kỷ niệm ông. Buổi lễ được tổ chức trong bầu không khí trang nghiêm và cảm động…Ngày nay, chữ Quốc ngữ được coi là rường cột của tiếng ta, đó là lý do vì sao chúng ta không thể không cảm ơn chân thành người đã phát minh ra nó, ông Alexandre de Rhodes." (Le courrier du Viêt Nam)

Tuy nhiên, sự tôn vinh đối với giáo sĩ dòng Tên nổi tiếng không thể là thứ cây có thể che rừng. Ngoài Alexandre de Rhodes, điều cần phải làm rõ là vai trò của những người truyền giáo đối với ngôn ngữ học. Thật vậy, ở Việt Nam, cũng như ở phần lớn các nước họ đến truyền giáo, họ không chỉ giới hạn vào việc thuyết giảng và phiên dịch lời Thiên Chúa. Họ còn lập nên những cột mốc quan trọng không thể bỏ qua trong lĩnh vực nghiên cứu ngữ pháp và ngữ nghĩa tiếng Việt.

Xin trở lại với Alexandre de Rhodes. Ông có "phát minh" chữ Quốc ngữ hay không? Cho dù vai trò của ông là nổi bật đi chăng nữa, chúng ta cũng phải thấy rằng ông chỉ là một mắt xích trong một sợi xích. Chúng tôi sẽ chứng minh luận điểm của mình theo ba phần. Sau khi điểm lại một cách vắn tắt cuộc đời và những chuyến đi của Alexandre de Rhodes, chúng tôi sẽ liệt kê những đóng góp chính của ông qua tác công trình từ điển học cùng vai trò của những người tiền bối, những linh mục dòng Tên Bồ Đào Nha. Phần thứ ba sẽ phân tích quá trình phổ biến của chữ Quốc ngữ với tư cách một hệ thống ký âm tiếng Việt.

1. Một kẻ phiêu du đa ngữ

Alexandre de Rhodes sinh tại Avignon, ngày 15 tháng 3 năm 1591, trong gia đình một nhà buôn tơ lụa gốc gác từ làng Calatayud xứ Aragon. Những người Marranos này chạy trốn Toà án dị giáo và đến tị nạn tại Avignon, khi đó là đất của Giáo Hoàng và tiếp nhận người Do Thái. Giống như nhiều người đứng đầu các gia đình Do Thái cải đạo sang Công giáo, cha của Alexandre đổi họ từ Rueda thành Rode, sau thành de Rode và cuối cùng là de Rhodes. Năm 1609, khi 18 tuổi, Alexandre de Rhodes đến Roma. Ngày 14 tháng 4 năm 1612 ông gia nhập Compagnie de Jésus (Hội Ái hữu Thiên Chúa). Tại đó, ông trau dồi kiến thức về các ngôn ngữ cổ (Latin, Hy Lạp và Do Thái), học tiếng Italia và toán học.

Ông dự định đi truyền đạo ở Nhật Bản, và tháng 10 năm 1618 rời Roma đến Lisbon, bấy giờ là cửa biển chính vào châu Âu của những người Đông Ấn. Trong khi chờ lên đường, ông học tiếng Bồ Đào Nha. Ngày 04 tháng 4 năm 1619, ông khởi hành trên chiếc tàu "Thánh Thérèse" để đến Goa. Trong số bốn trăm hành khách trên tàu còn có những nhà truyền giáo dòng Tên khác như Jérôme Majorica, tác giả nhiều văn bản Kitô giáo viết bằng chữ Nôm (thứ chữ Việt lấy cảm hứng từ chữ tượng hình Trung Quốc), nhà truyền giáo ở Bắc Kỳ và Nam Kỳ.

Con tàu vượt qua mũi Hảo Vọng ngày 20 tháng 7 năm 1619 và đến đảo Goa ngày 9 tháng 10 cùng năm. Ở đó, Alexandre de Rhodes được tiếp đón bởi các giáo sĩ dòng Tên đã định cư ở Goa từ khi Francis Xavier cập bến vào năm 1542. Ông lưu lại hai năm rưỡi tại Goa và Salsette, nơi ông bị ốm nặng. Tại đó, ông gặp giáo sĩ dòng Tên người Pháp Etienne de la Croix người đã dạy ông ngôn ngữ địa phương: tiếng Kanara hay còn gọi là Canarin. Ngày 12 tháng 4 năm 1622, ông lại tiếp tục hải trình đến Nhật Bản. Ông đến Malacca ngày 28 tháng 7 năm 1622 và phải chờ đợi gần chín tháng trước khi lại có thể tiếp tục ra khơi.

Ngay sau khi đến Macao ngày 29 tháng 5 năm 1623, ông bắt đầu học tiếng Nhật. Nhưng do các cuộc đàn áp Kitô giáo ở Nhật Bản tăng lên và nước này ngày càng bế quan tỏa cảng kể từ năm 1612, cấp trên quyết định chuyển ông đến một xứ khác: Đại Việt, nơi các cha cố Francesco Buzomi (1576-1639) và Diego Carvalho đã lập một hội truyền giáo (mission) từ năm 1615 tại Turan (Đà Nẵng).

Sau khi trải qua 18 tháng giữa Ma Cao và Quảng Đông, de Rhodes cùng năm nhà truyền giáo dòng Tên khác, trong đó có Gabriel de Matos, cập cảng Faifo (Hội An), một hải cảng lớn của phần đất mà ông gọi là Cochinchine (Nam Kỳ), ở phía namTuran. Đây là một trung tâm kinh tế lớn, giao thương với Nhật Bản và Bồ Đào Nha. Ông đến vào tháng 3 năm 1626 và trong vài tháng đã học tiếng Việt đủ để giảng đạo. Ngày 12 tháng 3 năm 1627, cùng giáo sĩ dòng Tên Pedro Marques, Alexandre de Rhodes đến Bắc Bộ. Ông được bề trên cử đi giúp đỡ giáo sĩ dòng Tên người Ý Giuliano Baldinotti vốn gặp khó khăn trong việc học tiếng Việt. Nhà thờ đầu tiên ở Bắc Bộ được xây dựng gần Thanh Hóa. Tuy nhiên, việc giảng đạo chẳng bao lâu bị gián đoạn vì xung đột, lý do là các nhà truyền giáo phản đối chế độ đa thê và giới quan lại lan truyền tin đồn rằng họ là gián điệp.Alexandre de Rhodes bị quản thúc tại Hà Nội vào tháng Giêng 1630, sau đó bị Chúa Trịnh Tráng, dưới áp lực của các vương phi, trục xuất vào tháng 5. Không thể quay lại Nam Kỳ, nơi còn bất lợi hơn đối với các Kitô hữu, bởi họ có thể bị nghi là gián điệp của Đàng Ngoài, Alexandre de Rhodes trở lại Macao, nơi trong vòng gần 10 năm ông dạy thần học luân lý.

Giữa 1640 và 1645, de Rhodes dẫn đầu bốn chuyến đi đến Nam Kỳ (từ tháng 1 đến tháng 9 năm 1640; từ tháng 12 năm 1640 đến tháng 7 năm 1641; từ tháng 1 năm 1642 đến tháng 9 năm 1643; từ tháng 1 năm 1644 đến tháng 7 năm 1645). Hầu hết thời gian, ông phải làm việc bí mật vì sự thù ghét của chính quyền địa phương. Bị trục xuất khỏi Nam Kỳ ngày 3 tháng 7 năm 1645, ông đến Macao hai mươi ngày sau đó. Để xin thêm trợ giúp của Tòa Thánh, Hội truyền giáo Châu Á (Missions d'Asie) đề nghị Alexandre de Rhodes đi Roma. Trước khi đi, ông dạy tiếng An Nam cho những người kế nhiệm là Carlo della Roca và Metello Sacano.

Rời Macao ngày 20 tháng 12 năm 1645 cùng một Kitô hữu trẻ người Trung Quốc, mãi đến ngày 27 tháng 6 năm 1649, sau nhiều trắc trở ông mới đến được Roma. Tại Roma, ông mô tả cho Vatican tình hình của Giáo Hội ở Nam Kỳ và Bắc Kỳ và cầu xin Vatican hỗ trợ thành lập hội truyền giáo thuộc Propaganda Fide (Cơ quan Tuyên truyền Đức tin). Ông biện hộ cho việc hình thành giới giáo sĩ địa phương và vận động bổ nhiệm một giám mục in partibus (giám mục giữa lương dân) cho Nam Kỳ và Bắc Kỳ, nhằm đối chọi lại padroado (sự bảo hộ) của Bồ Đào Nha đang thống trị ở đó về tôn giáo và chính trị.

Ông rời Roma ngày 11 tháng 9 năm 1652 với nhiệm vụ do Cơ quan Tuyên truyền giao phó là tìm người và kinh phí cần thiết để hoàn thành sứ mệnh của mình. Ông đi Piedmont và Thụy Sĩ, sau đó đến Paris vào tháng 1 năm 1653. Tại đây ông gặp Cha Jean Bagot, một giáo sĩ dòng Tên có quan hệ rất rộng trong giới cầm quyền, người từng làm lễ xưng tội cho vua Louis XIV.Ông tuyển mộ trong số các môn đệ của Cha Bagot một số tình nguyện viên đi Bắc Kỳ và Nam Kỳ, đặc biệt trong đó có François Pallu, người sẽ là một trong ba vicaires apostoliques (khâm mạng tòa thánh) được Giáo Hoàng bổ nhiệm năm 1658 cho các sứ mệnh ở châu Á, hành động khởi đầu cho việc thành lập Missions Étrangères de Paris (MEP, Hội truyền giáo hải ngoạiParis). Mặt khác, Compagnie du Saint-Sacrement (Hội Ái hữu Saint-Sacrement), được Anne d'Autriche, Saint Vincent de PaulBossuet hỗ trợ, cung cấp kinh phí cần thiết dự án của Alexandre de Rhodes. Nhưng dự án này có nguy cơ gây bất hòa giữa Giáo Hoàng, vua Bồ Đào Nha và Compagnie de Jésus. Bị thất sủng, ông được gửi đến Ba Tư vào tháng 11 năm 1654, nơi ông nhanh chóng học ngôn ngữ địa phương. Ông qua đời tại đây vào tháng 11 năm 1660.

Những chặng dừng chân trên các hành trình là cơ hội để Alexandre de Rhodes học ngoại ngữ. Alexandre de Rhodes biết 12-13 thứ tiếng: ngoài tiếng Pháp và tiếng Provencal, những thứ tiếng mẹ đẻ, ông còn biết các thứ tiếng Latin, Hy Lạp, Italia và có lẽ cả tiếng Do Thái, tiếng Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Canarin, Trung Quốc, Nhật Bản, Ba Tư và tiếng Việt, tất cả "ông gần như đều thông thạo." (Cadière, 1915, tr. 239) Alexandre de Rhodes là người khiêm tốn. Đến Việt Nam, ông thú nhận sự lúng túng của mình: "Thú thật là khi tôi đến Nam Kỳ và nghe tiếng nói của người bản địa, đặc biệt là phụ nữ, tôi cảm thấy như nghe tiếng chim hót líu lo và tôi mất hết hy vọng có ngày học được thứ tiếng ấy." (Alexandre de Rhodes, Voyages et Missions, 1854, tr. 79). Ông khiêm tốn, nhưng thật ra ông có năng khiếu học ngoại ngữ "dễ dàng một cách thần kỳ." (Cadière, 1915, tr. 239). Ông không chậm trễ trong việc làm chủ thứ tiếng như chim hót líu lo ấy: "Tôi ghi lòng tạc dạ việc này: Tôi học hàng ngày chăm chỉ hệt như trước đây học thần học ở Roma, và ý Chúa là sau bốn tháng, tôi đã có thể nghe hiểu những lời xưng tội, sau sáu tháng, tôi có thể giảng đạo bằng tiếng Nam Kỳ, công việc tôi sẽ tiếp tục làm trong nhiều năm." (Alexandre de Rhodes, Voyages et Missions, 1854, tr. 67) Như vậy, Cha de Rhodes đã được chuẩn bị "để lần ra, nhận biết, phân biệt và ghi lại bằng ký hiệu thích hợp những âm thanh khác nhau, đôi khi rất gần gũi, vì thế dễ đánh lừa, trong tiếng An Nam". (Cadière, 1915, tr. 239)

2. Alexandre de Rhodes và chữ quốc ngữ

Các cuốn “Dictionarium Anamiticum Lusitanum et Latinum” và “Catechismus Pro iis qui volunt suscipere Batismum”, xuất bản ở Roma năm 1651, trên thực tế, là hai tác phẩm nền tảng và không thể thay thế, đặt cơ sở cho việc ký âm tiếng Việt bằng chữ cái Latinh và ngoài ra còn cho chúng ta biết được hình trạng tiếng Việt thế kỷ XVII cùng sự tiến hóa của nó. Trong bài viết này chúng tôi chỉ tập trung vào cuốn từ điển.

Alexandre de Rhodes đã soạn cuốn từ điển khi nào? Không nghi ngờ gì nữa, trong những lần ông đến Việt Nam. Nhưng khoảng thời gian bảy năm ông ở xứ này luôn bị ngắt quãng bởi những lần đến rồi đi, từ giã rồi trở lại. Nếu lưu ý thêm rằng ôngcòn bị thúc bách bởi nhiệm vụ tổ chức truyền đạo và ông thường xuyên phải sống ở trong trạng thái bí mật hoặc nửa bí mật, một hoàn cảnh rất bất lợi cho công việc nghiên cứu ngữ nghĩa học, chúng ta có thể giả định, như Mục sư Bordreuil, rằng có lẽ ông đã làm cuốn từ điển trong thời gian khá dài tại Ma Cao, từ 1630 đến 1640: "Mặc dù ông không nói rõ trong các tác phẩm của mình, chúng tôi tin rằng Cha de Rhodes đã tận dụng khoảng mười năm yên ổn về tâm trí, nếu không phải để viết, thì ít nhất cũng là để đặt nền tảng cho hai cuốn sách quan trọng đối với Ki tô hữu An Nam và các nhà truyền giáo, chúng tôi muốn nói đến cuốn giáo lý và cuốn từ điển của ông. " (Bordreuil, tr. 79) Mặt khác, thời gian ở Roma cho phép ông thực hiện thành công việc thu xếp tài chính để xuất bản tác phẩm của mình.

Cha Lèopold Cadière, người rất am hiểu vấn đề, nhấn mạnh vốn hiêu biết tiếng An Nam sâu sắc của ông: "Mọi điều liên quan đến tiếng An Nam, phương ngữ Bắc Bộ và phương ngữ Nam Kỳ đều không phải là bí mật đối với ông... Ông còn cho chúng ta biết về thực trạng của tiếng An Nam cổ, những phong tục, tập quán ngày nay không còn và những thông tin mà chúng ta không thể tìm thấy ở bất cứ nơi nào khác... Thêm nữa, về nghĩa của các từ, cuốn sách là một sự đảm bảo tuyệt đối, những khái niệm ngữ pháp ông thêm vào cuốn từ điển cho thấy ông hiểu biết sâu sắc về cấu trúc đôi khi rất phức tạp và tinh tế của cú pháp An Nam" (Cadière, 1915, tr. 238-39)

Cuốn “Linguae Annamiticae seu Tunchinensis Brevis Declaratio”, phần tóm tắt ngữ pháp tiếng An Nam gồm 31 trang ở cuối, "đưa ra một tổng quan vắn tắt về sự vận hành của tiếng An Nam. Ông dành 6 trong số 8 chương để bàn đến vấn đề từ loại trong tiếng Việt." (Bref aperçu sur l’histoire de l’étude des parties du discours vietnamien, tr. 143). Các chương này là:
  • Chữ và âm tiết trong tiếng An Nam (Chương 1)
  • Dấu thanh và các dấu của các nguyên âm (Chương 2)
  • Danh từ, tính từ và phó từ (chương 3)
  • Đại từ (Chương 4)
  • Các đại từ khác (chương 5) 
  • Động từ (Chương 6)
  • Các thành tố bất biến trong tiếng Việt (Chương 7)
  • Một số thành tố của cú pháp (Chương 8)
Alexandre de Rhodes bám rất sát “thực tiễn ngôn ngữ của người An Nam trong các tầng lớp xã hội khác nhau." (Brefaperçu sur l’histoire de l’étude des parties du discours vietnamien, tr. 149) Nhưng ông đã ép cú pháp tiếng Việt vào cái khuôn khổ cứng nhắc của cú pháp Latinh: "Ta có thể tìm thấy những khái niệm ngữ pháp được sử dụng để mô tả tiếng Latin như cách, thì, thể, số, giống, và các giới từ. Trên thực tế đó là ngữ pháp tiếng Latin mở rộng, với khuôn khổ đã đông cứng từ nhiều thế kỷ, được áp đặt để mô tả một ngôn ngữ mới. (Bref aperçu sur l’histoire de l’étude des parties du discours vietnamien, tr. 50) Các nhà ngôn ngữ học Việt Nam đã phê phán quan điểm này và cho rằng ông không công bằng với các đặc điểm của cú pháp tiếng Việt.

Để soạn cuốn từ điển của mình, có lẽ Alexandre de Rhodes đã dựa vào những công trình ký âm Latinh tiếng Nhật (Romanji) đầu tiên của Yajiro, một người Nhật Bản cải đạo giữa thế kỷ XVI, tuy nhiên những tiền bối thực sự của ông là các linh mục dòng Tên người Bồ Đào Nha. Trong thông báo gửi độc giả cuốn từ điển, chính Alexandre de Rhodes cũng thừa nhận rằng ông chịu ơn những người tiền bối. Ông nói rằng ông đã làm việc trên cơ sở cuốn từ điển Việt-Bồ Đào Nha của Gaspar de Amaral và cuốn từ điển Bồ Đào Nha-Việt của Antonio Barbosa. Nhưng người thầy trước hết của ông là Francisco de Pina, cũng là một người Bồ Đào Nha. Từ năm 1622, Pina đã phát triển một hệ thống ký âm dùng chữ cái áp dụng cho ngữ âm và thanh điệu tiếng Việt, đã soạn một văn tuyển và bắt đầu viết một cuốn sách ngữ pháp (Roland, tr. 37) Năm 1624, Pina mở trường dạy tiếng Việt đầu tiên cho người nước ngoài, hai sinh viên trong số đó là Antonio de Fontes và ... Alexandre de Rhodes.

Vì thế, không có gì đáng ngạc nhiên khi các quy ước ký âm của chữ Quốc ngữ cho thấy ảnh hưởng của tiếng Bồ Đào Nha, điều chắc chắn không phải không có liên quan đến thực tế là giữa 1615 và 1788, trong số 145 linh mục dòng Tên tại Việt Nam có 74 người Bồ Đào Nha, trong khi chỉ có 30 người Ý, 5 người Pháp và 4 người Tây Ban Nha. Thật vậy, bảng chữ cái tiếng Việt là một sự áp dụng vào tiếng Việt bảng chữ cái được sử dụng trong các ngôn ngữ Roman của những nhà truyền giáo.Để biểu hiện các thanh điệu, họ sử dụng các ký hiệu trong tiếng Hy Lạp. Trong bảng ký âm này, Nguyễn Phú Phong, tiếp theo AG Haudricourt, nhấn mạnh ảnh hưởng của tiếng Bồ Đào Nha. Các phụ âm có nguồn gốc Bồ Đào Nha, đó là “gi”, “ch”, “x”, “nh”, còn các nguyên âm, đó là “â”, “ê”, “ô”. (A.G Haudricourt, tr. 61, Nguyễn Phú Phong, tr. 13-17) 

Các nhà truyền giáo dòng Tên người Bồ Đào Nha và Alexandre de Rhodes đã phát triển hệ thống chữ Việt dùng chữ cái, nhưng điều đó không có nghĩa là họ bỏ qua chữ Nôm. Hoàn toàn trái lại. Chữ nôm được họ sử dụng rộng rãi để truyền bá phúc âm dưới hình thức giáo lý, Thánh tích, các sách trích lời Thánh. Tên nhà truyền giáo người Ý Girolamo Majorica xuất hiện dưới 48 công trình khác nhau, tổng cộng 4200 trang[1]. Trên thực tế, như Jacques Roland đã nhấn mạnh, hệ thống chữ viết Latinh hóa trước hết là để giảng đạo và phục vụ công việc của nhà truyền giáo: "Nó cho họ một phương tiện tiếp cận khá thuận tiện với ngôn ngữ nói; nó cũng cung cấp một phương tiện trao đổi trí tuệ và giao tiếp bằng văn bản với những giới lãnh đạo người Việt của cộng đồng Kitô hữu, những người buộc phải học thứ chữ mới vì mục đích đó. Tình trạng phổ biến rất hạn chế của chữ Quốc ngữ thay đổi hết sức chậm cho đến giữa thế kỷ XVII. Khi đó, thứ chữ viết dùng chữ cái bắt đầu lan ra trong các cộng đồng Kitô giáo, có lẽ vì lý do an toàn đối lại với chính sách chống dị giáo và có lẽ cũng vì dễ sử dụng. (Jacques, tr. 51)

Nhưng trên thực tế sự sáng tạo chữ Quốc ngữ không chỉ do công sức của các nhà truyền giáo châu Âu. Họ đã không thể hoàn thành được công việc này nếu không có sự giúp đỡ của những người Kitô giáo Việt Nam, những giáo lý viên (les catéchistes), những giáo hữu (les frères) và tất nhiên, các linh mục (les prêtres). Chính họ cũng là những người chúng ta phải chịu ơn với tư cách là tác giả của những tác phẩm văn xuôi đầu tiên ở Việt Nam viết bằng ngôn ngữ "nôm na" và phiên âm bằng ký tự Latin: Lịch sử An Nam của Bento Thien (1659), Sổ ghi nhớ và chép công việc do nhà truyền giáo dòng Tên Philippe Binh viết tại Lisbonne (1822). Vai trò quan trọng của các học giả Việt Nam trong toàn bộ công trình ngữ âm học này đã bị bỏ qua một cách bất công. Các cộng tác viên bản địa thường không được nhắc đến. Chỉ có một vài bằng chứng cho thấy sự hợp tác này. Francisco de Pina đã được giúp đỡ bởi một học giả trẻ người Việt có tên thánh là Pero, một "nhà văn giỏi chữ Hán bậc nhất" (Roland, tr. 3). Alexandre de Rhodes bày tỏ lòng biết ơn bằng những lời cảm động: "Giúp tôi là một cậu bé bản địa tuyệt vời, người đã dạy tôi trong ba tuần tất cả các thanh điệu của tiếng Việt và cách phát âm tất cả các từ. Cậu không biết ngôn ngữ của tôi, tôi cũng không biết thứ tiếng của cậu, nhưng cậu có một trí thông minh tuyệt vời khiến cậu ngay lập tức hiểu những gì tôi định nói. Và trên thực tế, chỉ trong ba tuần ấy, cậu ta đã biết đọc biết viết thứ chữ của chúng tôi và biết phục vụ thánh lễ. Tôi rất kinh ngạc trước sự lanh lợi và trí nhớ của cậu”. (Alexandre de Rhodes, Voyages et Missions, 1854, tr. 89) Còn Tổng giám mục Pigneau de Behaine, người đã viết từ điển của mình ở Pondicherry, khoảng giữa tháng 6 năm 1772 và tháng 6 năm 1773, thì được sự giúp đỡ của tám học giả Nam Kỳ.

3. Từ Sứ mệnh truyền giáo đến sự phổ biến chữ Quốc ngữ

Pigneaux de Behaine là thành viên Missions Étrangères de Paris. Trên thực tế, chính các giáo sĩ của Hội truyền giáo hải ngoại là những người kế cận các giáo sĩ dòng Tên, tiếp tục phát triển chữ Quốc ngữ. Cuốn “Dictionnarum Annamitico-Latinum” của Pigneau de Behaine là cuốn từ điển đầu tiên bao gồm các ký tự Latinh và chữ Nôm không có trong cuốn từ điển của Alexandre de Rhodes. Bằng cách hợp lý hóa hệ thống phụ âm và thanh điệu, ông điều chỉnh, sửa chữa và làm phong phú thêm cuốn từ điển của Alexandre de Rhodes. Đức Cha Tabert sử dụng bản viết tay cuốn từ điển của Pigneau de Behaine và cho in năm 1838 tại Serampore, Bengale, dưới nhan đề “Dictionarium annamitico latinum”. Trong cuốn từ điển này, "sự đóng góp của Đức Cha Tabert không xác định rõ được... chứa khoảng 10.000 mục từ, mô tả chi tiết các nghĩa khác nhau của mỗi từ."(Moussay, tr. 2)

Trong năm 1868, Cha Legrand de la Liraye cho in cuốn “Dictionnaire élémentaire Annamite-Français” (Từ điển cơ sở An Nam-Pháp). Cuốn từ điển An Nam-La tinh của Đức Cha Tabert được chỉnh lý và hoàn thiện bởi Đức Cha Joseph Theurel, khâm mạng tòa thánh (vicaire apostolique) vùng Tây Bắc Kỳ, nhưng ông qua đời vào năm 1868, trước khi hoàn thành dự án.Cha Charles Lesserteur hoàn thành nốt công việc và công bố cuốn từ điển tại Nhà xuất bản của Mission de Ke-So, năm 1877. Cha Génibrel, thành viên MEP, xuất bản cuốn từ điển lớn của ông, “Dictionnaire Annamite-Français” (Từ điển An Nam-Pháp) năm 1898. Từ đầu thế kỷ XX đến năm 1928, nhiều nhà truyền giáo thuộc MEP công bố một loạt các cuốn từ vựng nhỏ: như những cuốn của Cha Ravier, Dronet, Pilon, Barbier, Masseron. Năm 1937 xuất hiện cuốn từ điển đồ sộ Dictionnaire Annamite-Chinois-Français (Từ điển An Nam-Trung Hoa –Pháp) của Cha Hue, thuộc MEP (Moussay, tr. 3)

Công trình từ vựng học của các nhà truyền giáo được tôn vinh bằng việc xuất bản vào năm 1957 cuốn Dictionnaire Vietnamien-Chinois-Français của Cha Eugene Gouin. Cuốn từ điển được tái bản năm 2002 bởi Nhà You Feng, đến nay vẫn được dùng để tham chiếu, mặc dù các từ điển gần đây nhất đã cập nhật sự tiến hóa của tiếng Việt viết và nói. Cần phải nhắcthêm các cuốn ngữ pháp, các sách và nhiều bài báo nghiên cứu ngữ âm và ngôn ngữ học. Như vậy, nếu các nhà truyền giáo ít dịch tác phẩm văn học, ngoại trừ cổ tích, thì họ đã rèn giũa đa số các công cụ dịch thuật. Ngoài các nhà truyền giáo, chúng ta phải thừa nhận sự đóng góp đáng kể của Georges Cordier, người đã xuất bản vào năm 1930 cuốn “Dictionnaire annamite-français à l’usage des élèves et des annamitisants”.

Chữ Quốc ngữ cũng được lọc qua cộng đồng Công giáo, vốn có thiên hướng hợp tác với những kẻ chinh phục, đặc biệt là các tác phẩm của hai học giả lớn, Huỳnh Tịnh Của (1834-1907) và Trương Vĩnh Ký (1837 - 1898). Huỳnh Tịnh Của, Ðốc phủ sứ đầu tiên của tỉnh, đã dịch các sắc lệnh của chính quyền Sài Gòn ra tiếng Việt, phổ biến chữ Quốc ngữ trên tờ báo tiếng Việt dùng chữ Quốc ngữ đầu tiên, tờ “Gia Định Báo”, xuất bản các truyện cổ và thần thoại sưu tầm trong khoảng 1880 – 1887 và soạn một cuốn từ điển tiếng Việt, vào năm 1897, phỏng theo từ điển tiếng Pháp. Nhưng một trong những đại kiến trúc sư của sự truyền bá chữ Quốc ngữ là Trương Vĩnh Ký. Nổi tiếng là một thiên tài đa ngữ, ông học tiếng Xiêm, tiếng Miến Điện, tiếng Lào, tiếng Cambodia, tiếng Trung Quốc ở Xiêm; học tiếng Nhật, tiếng Hindi, tiếng Hy Lạp, tiếng Latinh, tiếng Bồ Đào Nha, và tiếng Pháp tại Chủng viện Pénang, Singapore. Năm 1863, với tư cách là thư ký kiêm thông dịch viên, ông cùng với phái đoàn của Phan Thanh Giản đến Paris để xin chuộc lại ba tỉnh đã nhượng cho Pháp. Khi trở về, ông được bổ nhiệm làm Hiệu trưởng trường thông ngôn và giáo sư Trường hậu bổ. Trong số trước tác đồ sộ của con người đa tài ấy - sử gia, nhà tiểu luận nhà chính trị, nhà văn, nhà thơ và dịch giả - chúng ta chú ý trước hết đến cuốn sách ngữ pháp tiếng Việt đầu tiên do một người Việt viết (1863); cuốn “Petit dictionnaire franco-annamite” (Tiểu từ điển Pháp-An Nam); các bản phiên âm Quốc ngữ một số kiệt tác văn học chữ Nôm, như Kim Vân Kiều, Phan Trần, và Lục Vân Tiên; một số tác phẩm tự sự văn xuôi, đặc biệt là “Đông kinh du ký”, xuất bản năm 1887.

Về tiểu thuyết, cũng trong quỹ đạo của Công giáo, ta thấy xuất hiện, "câu chuyện hiện đại đầu tiên khai thác cái tôi, viết bằng văn xuôi, sử dụng chữ Quốc ngữ theo lối phương Tây, trong đó mô tả các nhân vật của đương thời với cuộc sống nội tâm, gia đình và xã hội." [2] Đó là “Truyện Thầy Lazaro Phiền” của Nguyễn Trọng Quản, do J. Linage xuất bản tại Sài Gòn vào năm 1887. Chủ đề, bối cảnh và nhân vật đều liên quan đến Ki tô giáo: nhân vật chính, Lazarô Phiền, trốn tránh trong cuộc sống tôn giáo sau khi lầm tin vào một lá thư, giết chết cô vợ trẻ và người bạn thân nhất của mình[3].

Trong nửa đầu của thế kỷ XX sự đóng góp của các tác giả người Việt ngày càng tăng, vượt xa giới Ki tô hữu. Đặc biệt cần phải nhắc đến: Buu-Can, với “Hán Việt thành ngữ” (Hà Nội, 1933), Do-van-Dap, với “Từ điển Hán - An Nam” (Nam Định, 1933), Đào Duy Anh, “An Nam-Pháp từ điển”, có chua chữ Hán các thuật ngữ Hán Nôm (Hà Nội, 1936), Long-Dien Nguyễn Văn Minh, “Từ điển điển tích văn học sắp xếp theo bảng chữ cái” (Hà Nội, 1941), Hoàng Xuân Hãn, “Từ vựng khoa học” (Sài Gòn, 1948); Dao Văn Tien, “Từ vựng khoa học” (Paris, 1945), Đào Văn Tập, “Từ điển tổng hợp Việt Pháp”(Sài Gòn, 1950), Đào Văn Tập, “Từ điển tổng hợp Pháp-Việt Nam” (Sài Gòn, 1950), Lê Bá Kông, “Từ điển Anh-Việt” (Hà Nội, 1950), Lê Bá Kông, “Từ điển Việt-Anh” (Hà Nội, 1950), Đào Văn Tập, “Từ điển tiếng Việt” (Sài Gòn, 1951), Trần Văn Hiệp, “Từ điển Trung-Việt” (1951); Thanh-Nghị, “Từ điển Việt-Pháp” (Sài Gòn, 1952); Dao Dang Vi, “Từ điển Pháp-Việt”(Sài Gòn, 1952). (Moussay, tr. 8)

Những công cụ ngôn ngữ học này rất hữu ích cho những kẻ thực dân. Thật vậy, những kẻ thực dân có nhu cầu thực tế phải học ngôn ngữ của dân thuộc địa và đào tạo thông dịch viên, những người làm trung gian cho họ. Để làm việc này, họ dựa vào các nhà truyền giáo. Trên thực tế, Trường Thông ngôn Sài Gòn, mà kể từ năm 1861 đã nhận hàng nghìn học sinh, chỉ là một biến thể của Trường trung học Adran nơi các nhà truyền giáo giảng dạy chữ Quốc ngữ và tiếng Latinh cho khoảng 40 học sinh[4]. Cùng năm đó, tức chỉ ba năm sau sự can thiệp của Pháp, viên sĩ quan hải quân Gabriel Aubaret xuất bản, bằng chữ Quốc ngữ, cuốn Từ vựng Pháp-An Nam và An Nam-Pháp, và sau đó là Ngữ pháp tiếng An Nam, năm 1867. Tiếng Pháp đã thế chỗ tiếng Latinh, nhưng tính chất công cụ của công cuộc này vẫn còn nguyên. Trong viễn kiến này, như Paulin Vial, Giám đốc Nội vụ Nam Kỳ, đã nhấn mạnh, việc sử dụng chữ Hán là một trở ngại cho hoạt động của chính quyền thuộc địa và sự giao tiếp giữa người Pháp và người Việt: “Ngay từ những ngày đầu, chúng ta đã nhận thấy rằng chữ Hán là một rào cản giữa chúng ta và dân bản địa; việc áp dụng lối viết dùng chữ cái giúp chúng ta hoàn toàn thoát khỏi rào cản đó; chữ Hán gây khó khăn cho việc chuyển tải đến người dân các khái niệm khác nhau cần thiết cho họ, ở mức độ phù hợp với tình hình chính trị và xã hội mới."[5] Ngoài ra, ngày 22 tháng 02, 1869, Chính quyền Nam Kỳ ra một nghị định, bắt buộc sử dụng chữ Quốc ngữ trong các văn bản hành chính.

Ngoại trừ các cơ quan của chính quyền thuộc địa và những người có liên quan bằng cách này hay cách khác, chữ Quốc ngữ ban đầu bị người Việt từ chối. Đối với một số nhà nho yêu nước, đó là chữ của quân xâm lược, tức bọn dã man. Một trong số họ, ông Nguyễn Bá Học (1857-1921), trước khi trở thành một trong những cây bút hay nhất của tạp chí Nam Phong, trong tình thế buộc phải học chữ Quốc ngữ để xin việc, đã trải nghiệm cảm giác xấu hổ: "Nói chung tôi không dám đọc thành tiếng; hễ có khách đến nhà, tôi vội vàng giấu cuốn sách vào túi như thể giấu một cuốn sách bí mật, hay sách cấm – đó là cuốn học vần, có bảng 24 chữ cái Latin”. [6]

Tuy nhiên, đến đầu thế kỷ XX, hàng loạt yếu tố đã thúc đẩy những người yêu nước Việt Nam biến chữ Quốc ngữ thành một công cụ đấu tranh giành độc lập dân tộc. Việc ký kết Hiệp định Patenôtre (1884) công nhận quyền cai trị của Pháp trên toàn cõi Việt Nam và cái chết của Phan Đình Phùng (1895) đánh dấu sự kết thúc cuộc kháng chiến của các quan lại triều đình, dẫn đến sự xuất hiện của một thế hệ các nhà yêu nước mới, trong đó hai lãnh tụ là Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh, những người đã làm quen với tác phẩm của Descartes, Montesquieu, Voltaire và Rousseau qua các bản dịch chữ Hán và được truyền cảm hứng mới từ Tân thư của các nhà cải cách Trung Hoa như Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu. Việc Nhật Bản đánh bại Trung Quốc (năm 1895) và Nga (năm 1905) đã thúc đẩy Phan Bội Châu phát động phong trào "Đông Du”, bí mật đưa sinh viên Việt Nam sang Nhật Bản để theo học trong các “trường Tây” của người Nhật. Nhưng sau thỏa thuận Pháp-Nhật, các sinh viên này bị trục xuất. Phan Châu Trinh thì đề cao các nguyên tắc của Cách mạng Pháp trong cuộc đấu tranh chống thực dân. Hai cụ "Phan" cùng một nhóm nhà Nho, với tinh thần hiện đại hóa và phê pháp Tân Nho giáo - bị coi là phản bội học thuyết của Khổng Tử - mở trường Đông Kinh Nghĩa Thục vào năm 1907. Trường này dạy miễn phí chữ Quốc ngữ và thúc đẩy việc hiện đại hóa văn hóa Việt Nam. Sau chín tháng tồn tại, trường bị chính quyền thuộc địa giải thể, những người lãnh đạo, tham gia và ủng hộ bị bắt giam, đặc biệt là bị đày ra Côn Đảo. Nhưng triết lý và phương pháp của trường đã lan rộng như dầu loang trên cả nước. Từ nay, chữ Quốc ngữ, hiện đại hóa và độc lập là không thể tách rời: "Được rửa tội bởi bàn tay của những chí sĩ yêu nước, chữ Quốc Ngữ không còn là chữ của họ (tức là của người Pháp, những linh mục Công giáo), mà trở thành con đẻ của tiếng Việt và từ nay được nhân dân Việt Nam yêu mến và tôn trọng." (Nguyễn Văn Hoàn, tr. 82)

Chiến thắng của chữ Quốc ngữ cũng liên quan chặt chẽ tới sự biến mất của chế độ Khoa cử ba năm một lần, một cách tuyển dụng quan lại truyền thống của Việt Nam. Từ thời Tự Đức, các kỳ thi không còn được tổ chức tại Nam Kỳ. Hai kỳ thi cuối cùng được tổ chức tại Nam Định (1915) và Huế (1919). Việc xóa bỏ chế độ khoa cử không những thúc đẩy sự suy tàn của chữ Hán, mà còn phản ánh một sự thay đổi văn hóa sâu sắc: "Các cuộc thi thơ phú từ đây phải cạnh tranh với các chương trình học mới, và dần dần mất giá, bởi vì này càng ít có ích lợi để tiến thân trong xã hội mới." (Brocheux, Hémery, tr. 218)

Các nhà Nho thức thời cũng là những người ủng hộ mạnh mẽ chữ Quốc ngữ: "Đến lượt mình, các nhà Nho Việt Namcũng coi chữ Quốc ngữ như một công cụ hữu hiệu để phổ biến Tư tưởng mới, Sách báo mới và giáo khoa mới cho dân chúng ...Sự tiếp nhận chữ Quốc ngữ đi đôi với việc phổ biến các tác phẩm mang tinh thần hiện đại xuất bản với trọng trách và trongkhuôn khổ các hoạt động văn hóa và giáo dục." (Trịnh Văn Thảo, tr. 207) Tác phẩm nghiên cứu tổng hợp đầu tiên về văn minh phương Tây, “Văn Minh Tân học sách”, được xuất bản chính với logich như thế (Trịnh Văn Thảo, tr. 208)

Việc tiếp nhận chữ Quốc ngữ của người Việt không thể tách rời phong trào xóa nạn mù chữ. Theo David Marr, trong khoảng giữa năm 1920 và 1940, có 88 cuốn sách học vần khác nhau được công bố, tổng cộng 364 lần in, với 3,7 triệu bản.(Trích theo Phạm Đán Bình, tr.135) Những cuốn sách này không chỉ nhằm phổ biến chữ Quốc ngữ, mà còn để chống nạn mù chữ. Năm 1926, theo Georges Garros, cũng được trích dẫn bởi Phạm Đán Bình (tr.135), chỉ có 20.000 học sinh trong số ba triệu trẻ em ở độ tuổi đi học. Năm 1938, để khắc phục sự kém cỏi của chính quyền, Hội truyền bá chữ Quốc ngữ được thành lập và đến khoảng năm 1945 đã tuyển dụng 1971 giáo viên cho 59 827 người học và phân phát 175 000 cuốn học vần (Phạm Đán Bình, tr.136) Chiến dịch chống nạn mù chữ đã được phát triển rộng rãi nhờ Mặt trận Cách mạng (Việt Minh). "Từ tháng 9 năm 1945 và tháng 12 năm 1946, Bình dân học vụ đã huy động 95.665 giảng viên tình nguyện để dạy đọc và viết cho2.520.678 người. Đến cuối năm 1958, có thể khẳng định rằng 93,4% dân số các vùng đồng bằng, ở độ tuổi từ 12 đến 50, đã thoát nạn mù chữ”. (Phạm Đán Bình, tr.136).

Chữ Quốc ngữ, như vậy, đã trở thành phương tiện chuyên chở của hiện đại hóa và bản sắc dân tộc: "Một hình ảnh phổ biến trong dân chúng thể hiện cảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh, cũng là con một nhà Nho yêu nước, đứng cạnh bảng đen, dạy trẻ em nông thôn đọc và viết chữ Quốc ngữ. Chữ Nôm bị xóa dần cho đến khi biến mất hoàn toàn, còn thứ chữ của những nhà truyền giáo và người Pháp đã trở thành chữ viết duy nhất của mọi người Việt Nam: "chữ Quốc ngữ”. Được sử dụng trong mọi lĩnh vực, chữ Quốc ngữ đã được tôn vinh như là phương tiện chuyên chở ý thức hệ”. (Jacques, tr. 51)

4. Kết luận

Để kết thúc bài viết này, chúng ta hãy trở lại với Alexander của Rhodes và sự công nhận ngày càng tăng của chính quyền Việt Nam về vai trò của ông. Thật vậy, sau năm 1945, sự chối bỏ thời kỳ thuộc địa đã dẫn đến sự phủ nhận sự nghiệp của Alexandre de Rhodes, "Sự Latinh hóa văn bản được coi là một hành động chính trị thù địch, một ý đồ phá hủy cấu trúc văn hóa nhằm chia rẽ văn hóa cộng đồng quốc gia và áp đặt sự thống trị nước ngoài." (Jacques Roland, tr. 24)

Theo logich này, đài tưởng niệm Alexander de Rhodes đã bị gỡ bỏ: "Thật không may, cái đài tưởng niệm ấy đã biến mấtvào một ngày cách đây khoảng ba mươi năm. Ai đã gỡ nó? Không ai biết! Một hành động chính trị hay một sự phá hoại đơn thuần, bí ẩn ấy vẫn chưa được sáng tỏ. Vậy đó, tấm bia, mặc dù khá lớn, đã biến khỏi bệ... Một lần người ta nhìn thấy nó trong một hiệu chữa khóa, nơi nó được dùng làm...đe. Sau đó, một nhà buôn chè dùng nó để bầy hàng – thật tiện để vừa uống trà vừa học! Một số người thậm chí còn nhìn thấy nó bên bờ sông Hồng…Vào những năm 1980, tại khoảng không gian dành cho Alexandre de Rhodes mọc lên một tượng đài cách mạng trắng tinh khôi tuyệt đẹp, tôn vinh những người yêu nước: ba pho tượngngười chiến sĩ cỡ lớn, một trong số đó là phụ nữ. Trên bệ, có dòng chữ: "Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh." (Le courrier du Việt Nam)

Phải đến năm 1993 Alexander de Rhodes mới được phục hồi danh dự. Năm đó, Câu lạc bộ sử gia đã tổ chức nói chuyện về Alexander Rhodes và Giáo sư Nguyễn Lân đã nhắc đến đài tưởng niệm giáo sĩ người Pháp. Theo ông, đáng lẽ không nên phá đài kỷ niệm ấy. “Le courrier du Viêt Nam” dùng từ « enlèvement” (gỡ bỏ): “Hành động này cho thấy một nhận thức thiển cận,sự thiếu hiểu biết về lịch sử và, dù sao đi chăng nữa, cũng không xứng đáng với truyền thống của dân tộc ta. Alexandre de Rhodes, chẳng phải là ông đã làm việc cho người Việt Nam hay sao? Chữ Quốc ngữ, thứ chữ dễ học hơn nhiều so với chữ tượng hình, đã giúp phần lớn dân chúng tiếp cận tri thức và thông tin... Và nhà truyền giáo cũng là một nhà nhân văn chủ nghĩa, gần gũi với dân chúng." (Le courrier du Việt Nam).

Đã đến lúc trả lại cho Alexander de Rhodes không gian kỷ niệm tại trung tâm thủ đô nước Việt. Giáo sư Nguyễn Lân đề xuất để xây dựng một bức tượng bán thân ở công viên Tao Đàn ở phía trước cửa trường Đại học Dược Hà Nội. Nhưng cũng có thể đặt lại tấm bia cũ bây giờ đang được lưu trữ trong kho của Ban quản lý các di tích lịch sử và du lịch thủ đô. Năm 1995, Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn tổ chức một hội thảo chuyên đề về cuộc đời và sự nghiệp của nhà truyền giáo ngườiPháp. Trong lời phát biểu của ông về đóng góp của giáo sĩ dòng Tên người Pháp tại Việt Nam, TS. Nguyễn Duy Quý kết luận: "Chúng tôi dự định đặt tấm bia cũ trong khuôn viên Thư viện Quốc gia. Chúng tôi cũng muốn khôi phục lại tên của nhà truyền giáo nổi tiếng cho một đường phố ở Thành phố Hồ Chí Minh đã bị đổi tên vài thập kỷ trước... (Le courrier du Viêt Nam)

Như vậy, công lao của Alexandre de Rhodes đã được chính quyền Việt Nam công nhận thỏa đáng.

Ngô Tự Lập dịch (từ tiếng Pháp)

BIBLIOGRAPHIE

I. Ouvrages d’ Alexandre de Rhodes
1. Catechismus Pro iis qui volunt suscipere Batismum in octo dies divisus (Phep giang tam ngay cho ke muân chiu phep rua, ma be do dao thanh duc Chua bloi), Ope scra Congregationis de Propaganda Fide in lucem editus? Ab Alexandro de Rhodes è Societate IESU ejusdemque Sacrae Congregationis Missionario Apostolico, Romae, Typis Sacrae Congregationis de Propaganda Fide, Superiorum permissu.s.d. 323 p, Imprimatur, Rome, 8 Juillet 1651.
2. Dictionarium Anamiticum Lusitanum et Latinum ope Sacra Congregationis de Propaganda Fide in lucem editum ab Alexandro de Rhodes E Societate Iesu ejusdemqu Sacrae Congregationis Missionario Apostolico, Romae, Typis et sumptibus ejusdem Sacr. Congregat. MDCLI (1651), SuperiorumPermissev, 88ff, 450p, deux colonnes +Linguae Annamiticae sev Tunchinensis bevis Declaratio, pp 1-31,
3. Histoire du royaume du Tonkin par A. de Rhodes, Revue Indochinoise, 1908, 2° semestre, 30 juillet, 15 août, 31 août, 15-30 septembre. Traduction de Tunchinensis historiae libri duo quorum altero status temporalis huius Regni …, Lyon, 1652.
4. Voyages et missions du Père Alexandre de Rhodes de la Compagnie de Jésus, en la Chine et autres royaumes de l’orient. Nouvelle édition par un père de la même Compagnie (Le Père Auguste Carayon), Paris, Julien Lanier et cie, 1854 pp VII-448.

II. Dictionnaires et grammaires [7]

1. Pigneau de Behaine Joseph Georges (1741-1799) membre du Séminaire des Missionnaires de Paris, évêque d’Adran, vicaire apostolique de Cochinchine, de Cambodge, de Ciampa, Vocabularum annamitico-latinum, 1772, 729 p, Edition en fac-similé du manuscrit original, Documents des Archives des Missions Étrangères de Paris, 2001, 729 p, 34,5 x 24 (Traduction en vietnamien : Tu vi Annam Latinh préfacé par Nguyên Dinh Dâu, Thanh Pho Hô Chi Minh, Nha xuât ban Tre, 1999, 574 p, 14 x 20.
2. Taberd A.L (1794-1840), Dictionnarum annamitico-latinum, primum incetum ab P.J Pigneaux, episcopo adranensi, vicario apostolico Cocincinae, dein abslutum et editum a I.L Taberd, episcopo isauropolitano, vicarioapostolico Cocincinae,Serampore, EX Typis, J.C Marsham, 1838, XLVI, 7322-128 p, 28cm. Réimprimé au Viêt Nam en 2004 par le Centre d’études de la culture nationale.
3. Aubaret Gabriel, Grammaire annamite, suivie d’un vocabulaire français-annamite et annamite-français, Paris, Imprimerie Impériale, 1867.
4. Truong Vinh Ky, Jean Baptiste Petrus, Abrégé de grammaire annamite, Saïgon, Imprimerie Impériale, 1867.
5. Legrand de la Liraye 1868 Dictionnaire élémentaire Annamite-Français, Saïgon, Imprimerie Impériale, 184 p.
6. Theurel, Mgr Joseph, Dictionnarum annamitico-latinum, ex opere Taberd con tans, nec no ab J.S Theurel, episc, A canthensi, vicario apost, Tunquini occidantalis recognitum et notabiler adauctumad quod ac-cessit, Appendix de vocibus sinicis et locutionibus minus usitatis, Nin Phu, Ex Typis Missionis Tunquini occidentalis, 1877, XXX-566-71 p
6. Truong Vinh Ky, Jean Baptiste Petrus, Grammaire de la langue annamite, Saïgon, C.Guilland et Martinon, 1883, 304 p.
7. Truong Vinh Ky, Jean Baptiste Petrus, Guide de la conversation annamite. Sách tâp nói chuyên tiêng Annam vá tiêng Phangsa. 2e édition. Saigon, Ban-in Nhà Hàng C. Guilland et Martinon, 1885.
8. Truong Vinh Ky, Jean Baptiste Petrus Petit dictionnaire franco-annamite, Nouvelle édition ornée du portrait de l'auteur illustrée de 1250 gravures extraites du Petit Larousse illustré. Saigon, F.-H. Schneider, 1911 (Première édition, 1887).
9. Huynh Tinh Cua, dit Paulus Cua, Dictionnaire annamite ... Dai nam quâc âm tu vi. Tham dung chu nho có giai nghia, có dan chúng, muon 24 chu cái phuong Tây làm chu bô. Deux volumes. Saigon, Rey, Curiol & Co., 1895-1896.
10. Génibrel, J.MF, Dictionnaire annamite-Français comprenant 1°: tous les caractères de la langue annamite vulgaire avec l’indication de leurs divers sens propres et figurés et justifiés par de nombreux exemples, 2° les caractères chinois nécessaires à l’étude de Thu Tho, (=Quatre Livres classiques chinois), 3° la flore et la faune de l’Indochine par JMF Genibrel, missionnaire apostolique, 2° édition refondue et considérablement augmentée, Saïgon, Imprimerie de la Mission à Tân Dinh, 1898, 987 p.
11. Hue, Gustave, MEP, 1937 Dictionnaire Annamite-Chinois-Français, Hanoi, Imprimerie Trung Hoa Thiên Ban, 1937, 1199-7 p.
12. Cordier Georges, Dictionnaire annamite-français à l’usage des élèves et des annamitisants, Hanoi, Imprimerie Tonkinoise, 1930, 1433 p.
13. Gouin Eugène, Dictionnaire vietnamien, chinois, français, Saïgon, Imprimerie d’Extrême-Orient, 1957, réédité en 2002 par les Editions You Feng, en collaboration avec Les Indes Savantes et les Missions Étrangères de Paris.

III. Ouvrages et articles

1. Bordreuil, Daniel, Etude biographique schématique sur le R .P Alexandre de Rhodes, S.J, (1591-1660) apôtre de l’Annam au XV11ème Siècle, Thèse de Maîtrise en Théologie soutenue le 8 Avril 1954, Faculté Libre de Théologie Protestante, d’Aix en Provence. 
2. « Bref aperçu sur l’histoire de l’étude des parties du discours vietnamien (1ère période), Lê thi Xuyên, Pham Thi Quyên, Do Quang Viêt, Nguyên Van Bich, (Université Paris VII, Univerité Nationale de Hanoi), Histoire Épistémologie Langage, 2004, pp 137-158. 
3. Brocheux Pierre, Hémery Daniel, Indochine, la colonisation ambiguë, Parsis, éditions la découverte, 2004
4. Cadière Léopold, Missions Étrangères de Paris, «Les Européens qui ont vu le Vieux Hué: le père de Rhodes», Bulletin des Amis du Vieux Hué, II, 1915, pp 231-250.
5. Cadière Léopold, «Le Titre divin en annamite. Etude de terminologie chrétienne», Revue d’histoire des missions,supplément au n°de Décembre 1931, pp 1-27.
6. Cadière Léoplod, « Iconographie du Père de Rhodes », Bulletin des Amis du Vieux Hué, XXV, 1938, pp 27-62.
7. Francis, John de, Colonisation an language policy, La Haye, 1977
8. Haudricourt, André Georges, « Origine des particularités de l’alphabet vietnamien », Bulletin Dân Viêt, 3, EFEO, 1949, pp 61-68.
9. Jacques, Roland, «Le Portugal est la romanisation de la langue vietnamienne. Faut-il réécrire l’histoire», Revue d’histoire de la France d’outre-mer, T 85, 1998, n° 318, pp 21- 54.
10. Le courrier du Viêt Nam, 4, Juillet 2004, Hông Nga et Sébastien.
11. Moussay Gérard, Les dictionnaires vietnamiens du XVIIème au XXIéme siècle, Texte inédit aimablement communiqué par l’auteur, 8 p.
12. Nguyên Phu Phong, «Regards comparatifs sur les deux écritures vietnamiennes», Cahiers d’études vietnamiennes, 15, 2001, pp 1-22.
13. Nguyên Van Hoan, «Le quôc ngu, nouvel instrument de la langue vietnamienne», Approches Asie, n° 7, Mars 1984, pp 70-88)
14. Phan Dan Binh, «Romanisation de l’écriture et alphabétisation au Viêt Nam. Bilan et problèmes», in Illetrismes: variations historiques et anthropologiques, sous la direction de Bernard Frankael, Paris, BPI, Centre Georges Pompidou, 1993, pp 125-137.
15. «Souvenir d’ Alexandre de Rhodes (1591-166)», 37ème cahier de la Société de géographie de Hanoi, Hanoi, G.Taupin, 1941, tirage à part du n°41 de la revue Indochine, spécialement réimprimé par les Amis du Vieux Hanoi et les membres du Comité du Monument d’Alexandre de Rhodes, 15p.Cf notamment les articles suivants: R.Bourgeois, Alexandre de Rhodes, pp 3-5, P.Boudet, Les œuvres du R.P Alexandre de Rhodes, pp 6-8, Nguyên Van Tô, Le père Alexandre de Rhodes et la transcription de Quôc Ngu, pp 9-10. de Francis, Colonisation and language policy, La Haye, 1977. 
16. Trinh Van Thao, Vietnam. Du confucianisme au communisme, Paris, L’Harmattan, Logiques sociales, 2007. 
17. Vietnamese Lexicography, Nguyên Dinh Hoa, http: //www.vietnamjounal.orgarticle 51
18. Vu Khanh Tuong, Les missions jésuites avant les missions étrangères au Viêt Nam (1615-1665), Travail présenté pour l’obtention du Doctorat en Théologie, Institut Catholique de Paris, 1956. 

-------------------------------
[1]Alexandre Lê, Etude du Nôm, écriture idéographique de la langue vietnamienne : son histoire, sa structure et sa valeur littéraire , Paris, I.N.A.L.C.O, 1995, D.E.A de langue vietnamienne, tr. 61-60. 
[2] Pham Dan Binh, Littérature vietnamienne et apports français au début du 20°siècle, in « Littérature d’Extrème-Orient au xx° siècle », Arles, Editions Philippe Picquier, 1993, p 57.
[3] Pham Dan Binh , đã dẫn. 
[4]. Phan Ngoc, tr. 131 . 
[5] Lettre de Paulin Vial adressée au Gouverneur de Saïgon le 15 Janvier 1878 in J.Bouchot, Petrus Truong Vinh Ky, érudit indochinois, Saïgon, 3°édition, 1927, tr. 48 . Trích theo Nguyên Van Hoan), Tạp chí Nam Phong, n°50, 1921, p 78 . 
[6] Lược sử cụ Nguyễn Bá Học (Biographie succincte de Nguyễn Bá Hoc , trích theo Nguyễn Văn Hoàn, đã dẫn. tr. 80
[7] Les dictionnaires et grammaires postérieurs au dictionnaire d’Alexandre de Rhodes, sont citéspar ordre chronologique.
-------------------------------
(*) Nguồn: viet-studies.info, Alexandre de Rhodes có phát minh ra chữ quốc ngữ?(viet-studies 17-9-11)

Hani Rasid & khách sạn ánh sáng

[TGKT] Công nghệ chiếu sáng và vật liệu mới đang ngày càng chứng tỏ khả năng gây ấn tượng cao khi được ứng dụng vào công trình kiến trúc hiện đại. Bằng kinh nghiệm thiết kế và tư duy ứng dụng công nghệ đèn chiếu sáng LED mới, KTS Hani Rasid đã tạo nên công trình tổ hợp khách sạn Yas Maria độc nhất vô nhị. 

Với vẻ ngoài được thiết kế độc đáo, Yas Maria được mô phỏng theo hình dáng vô định hình của giọt nước. Hani Rasid đã thiết kế tổ hợp công trình gồm hai phần tòa nhà riêng biệt, mỗi trong đó cao 12 tầng, được nối với nhau bởi các cầu nối làm bằng kính chịu lực.

Những mẫu thiết kế nhà mang tính đột phá

[TGKT] Có mặt trong danh sách đều là những thiết kế vượt thời đại và sẽ tham gia liên hoan kiến trúc thế giới - World Architecture Festival diễn ra tại Barcelona vào cuối năm nay.

1. Atmosphere
Ngoạn mục hơn bất kỳ tòa tháp nào ở Ấn Độ, tòa nhà mới mang tên Atmosphere được cho là nổi bật hơn cả với chiều cao 100m. Dự kiến, tòa nhà này sẽ được xây dựng tại Calcutta. Tòa tháp được lấy cảm hứng từ cuộc sống của những người theo đạo Hindu. Ở đây có 80 căn nhà được thiết kế cho những gia đình đa thế hệ.

Lăng tẩm Huế: Một thành tựu rực rỡ của nền Kiến trúc cổ Việt Nam

Ngọ Môn - cửa vào Điện Thái Hòa - Huế
[TGKT] Ngoài sông Hương, Huế còn thu hút du khách với những công trình kiến trúc lăng tẩm vừa trang nghiêm vừa hùng vĩ, với vẻ đẹp "chẳng nơi nào nào có được".

Cách đây gần 80 năm, một người Tây Phương tên là Ph. Eberhard đã viết: "Huế là một trung tâm du lịch hấp dẫn, nơi có Kinh thành, Hoàng thành và lăng tẩm, có một sức cuốn hút sự chú ý đặc biệt của du khách và các nhà mỹ thuật. Chỉ riêng lăng tẩm các vua nhà Nguyễn không thôi cũng đã đủ có giá trị đối với cuộc du lịch rồi, theo ý kiến chung lăng tẩm Huế đẹp hơn lăng tẩm các vua nhà Minh ở Trung Quốc".

Mãi cho đến ngày nay, ý kiến chung của những nhà làm công tác văn hóa nghệ thuật trong nước và trên thế giới cũng khẳng định rằng lăng tẩm Huế là một thành tựu rực rỡ của nền kiến trúc cổ Việt Nam. Triều Nguyễn (1802-1945) có đến 13 vua,

Bản sắc văn hóa Việt trong di sản Huế

GS Takeshi Nakagawa - Ảnh: Thái Lộc
[MCĐV] Giáo sư Takeshi Nakagawa, chuyên gia hàng đầu thế giới về bảo tồn và tái thiết di sản, vừa có buổi làm việc với lãnh đạo tỉnh Thừa Thiên - Huế về dự án tái thiết điện Cần Chánh trong Tử Cấm thành Huế.

Giáo sư đã dành cho Tuổi Trẻ Cuối Tuần một cuộc phỏng vấn về việc tái thiết điện Cần Chánh và trùng tu di tích ở Huế.

Đủ cơ sở để tái thiết điện Cần Chánh

Sau 15 năm hợp tác nghiên cứu, theo giáo sư, đến nay đã đủ cơ sở khoa học để phục nguyên điện Cần Chánh?

Dù điện Cần Chánh nay chỉ còn nền móng nhưng chúng tôi đã sưu tầm tất cả ảnh tư liệu cổ, đã đo đạc trên ảnh, trên nền móng... và đã trải qua rất nhiều phân tích để đi đến kết luận: có khả năng phục hồi. Nhiều công trình khác cũng được nghiên cứu, sử dụng các phương pháp khác nhau để rút ra quy luật chung.

Kinh thành Huế với các pháo đài ziczac theo kiểu kiến trúc quân sự Vauban - Ảnh: Thái Lộc

Chúng tôi đã phỏng vấn thợ làm nhà rường truyền thống để “bắc cầu”, so sánh với cách thiết kế kiến trúc cung điện ngày trước. Thêm nữa, chúng tôi có thể lấy kinh nghiệm thực tế từ công trình điện Long Đức đang được tu bổ, từ việc nghiên cứu điện Long An và cả từ dự án tái thiết điện Chiêu Kính.

Đến nay hệ thống tỉ lệ cho việc tái thiết điện Cần Chánh đã được đúc kết. Dù chưa rõ được trang trí nội thất của điện nhưng theo tôi, việc này không khó và sẽ được tiếp tục nghiên cứu trong quá trình tái thiết hệ khung với sự hỗ trợ của các nhà nghiên cứu địa phương.

Cần nói thêm: khi phục nguyên điện Cần Chánh, ngoài giá trị khoa học của một di sản kiến trúc chúng tôi còn nghĩ đến chức năng phù hợp với đời sống đương đại - điện có thể trở thành hội trường tổ chức các hội nghị lớn, là nơi tiếp khách quốc tế sang trọng nhất, bởi nó thể hiện bản sắc văn hóa dân tộc.

Công trình phục hồi điện Cần Chánh sẽ có vai trò như chiếc chìa khóa cho việc tái thiết các hệ thống cung điện phía trong Tử Cấm thành và Hoàng thành Huế. Tôi khẳng định đã đủ cơ sở khoa học và cơ sở pháp lý để phục nguyên điện Cần Chánh.

Theo giáo sư, còn bao lâu nữa mới chính thức phục hồi?

Tôi không thể trả lời chính xác vì quá trình hợp tác phát sinh những vấn đề thuận lợi và không thuận lợi. Chúng tôi sẽ dành trọn năm 2012 để đúc kết toàn bộ kết quả nghiên cứu, quá trình hợp tác và đưa ra các chương trình hành động thực tiễn. Ngoài tiếp tục nghiên cứu trang trí nội thất, mô hình điện Cần Chánh tỉ lệ 1/10 đang được thực hiện để kiểm chứng hệ thống tỉ lệ kiến trúc đã nghiên cứu cũng như phương pháp chế tác những cấu kiện gỗ, sau đó sẽ tiến hành làm tỉ lệ 1/1 tái thiết bước 1 phần kiến trúc điện Cần Chánh.

Hành lang Tử Cấm thành: việc phục hồi hành lang Tử Cấm thành trước khi
phục hồi các cung điện được nhiều người xem là quy trình ngược trong trùng tu
di tích Huế hiện nay - Ảnh: Thái Lộc

Về kinh phí tái thiết, tôi mong muốn cả hai chính phủ Việt Nam và Nhật Bản cùng kết hợp hỗ trợ để thực hiện bằng được dự án này. Văn phòng Tịnh Minh lâu đã được thành lập, đó là nơi tập trung tất cả dữ liệu, nơi cùng làm việc của nhóm dự án hai phía Nhật Bản - Việt Nam và là đầu mối quan trọng để tái thiết điện Cần Chánh cùng nhiều công trình sau này. Tuy nhiên tình trạng văn phòng Tịnh Minh lâu không được đưa vào hoạt động như hiện nay thì mọi dự định tái thiết đều không thể thực hiện.Đừng bắt nhiều thời kỳ quá khứ hội đàm cùng hiện tại

Thưa giáo sư, ngay sau điện Cần Chánh, các hành lang Tử Cấm thành hiện đang được phục nguyên trong khi những cung điện vẫn chỉ là nền móng. Đây có phải quy trình trùng tu ngược hay không?

Công cuộc trùng tu di tích (ở Huế - PV) hiện chưa được hoạch định rõ tiêu chí, đâu là chính đâu là phụ. Ngay cả về mặt thời gian cũng chưa có quy định rõ ràng: phục hồi di tích thời Gia Long, Minh Mạng hay Khải Định - từ đó dẫn đến sự tùy tiện trong trùng tu. Đây cũng chính là vấn đề lớn hiện nay đối với công việc phục hồi, tái thiết.

Cần nhớ rằng công cuộc trùng tu di tích ở Huế phải tuân theo những kết luận của hội đồng di sản văn hóa thế giới và các tiêu chí về bảo tồn trùng tu di sản. Tuy nhiên có thể có những trường hợp biệt lệ. Từng là thành viên nhóm công tác UNESCO suốt 10 năm và là một trong những chuyên gia xây dựng nền tảng chính sách, nhất là chính sách đặc thù cho từng khu vực di sản, chúng tôi mong muốn được tham vấn trước khi Huế tái thiết hay làm một công việc gì đó với các di sản. Rất tiếc có một số trường hợp chưa tham vấn nhưng đã làm rồi!

Theo tôi, không thể vội vã đối với công việc trùng tu di sản khi chúng ta chưa hiểu thấu đáo về nó. Mà muốn biết rõ thì phải dày công nghiên cứu. Những di sản lớn của thế giới trước khi quyết định trùng tu đều phải mất rất nhiều thời gian nghiên cứu. Huế cũng vậy. Tôi xin nhấn mạnh: xét trên bình diện bản sắc văn hóa Việt Nam trong di sản thế giới thì Việt Nam chỉ có một - đó chính là kinh thành Huế.

Vì sao “Việt Nam chỉ có Huế”, thưa giáo sư?

Sự ảnh hưởng văn minh Trung Hoa tại các nước châu Á lân cận có sự khác nhau, ngay cả trong từng quốc gia. Như trường hợp miền Bắc Việt Nam và có thể xứ Đàng Ngoài trước đó: ảnh hưởng của văn minh Trung Hoa rất trực tiếp và toàn diện. Hoàng thành Thăng Long là một minh chứng. Tuy nhiên với xứ Đàng Trong trước đây và miền Nam sau này thì ảnh hưởng rất có chọn lọc: lựa chọn những gì tinh túy nhất và giữ lại những gì phù hợp với văn hóa của mình.

Có thể minh chứng thông qua đề tài luận án tiến sĩ của TS Lê Vĩnh An (Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế) khi trình bày về sự khác biệt giữa kỹ thuật thiết kế kiến trúc của Trung Hoa và của người Việt. Trong khi ở Bắc bộ cơ chuẩn thiết kế chủ yếu dựa trên hai phương là thẳng và ngang, thì thiết kế kiến trúc Trung bộ và cung điện ở Huế lại dựa trên từng bộ phận và chiều nghiêng của mái. Đây là một phát hiện rất quan trọng.

Thêm nữa, việc đưa thiên nhiên vào trong quy hoạch kinh đô là nét rất đặc trưng của đô thị Huế, điều này rất mờ nhạt trong văn minh cổ Trung Hoa...

Tôi rất muốn so sánh Ngọ môn Huế và Ngọ môn Trung Hoa. Dù công trình cùng hình thức, tên gọi, song có sự khác biệt gần như hoàn toàn. Điều đó hết sức thú vị và cũng rất quan trọng. Ngọ môn Trung Hoa là tòa kiến trúc uy nghi dựng trên nền móng to lớn, ngược lại Ngọ môn ở kinh thành Huế được hình thành từ những cấu kiện rất khiêm tốn nhưng lại trở thành một kiến trúc có giá trị, đặc sắc.

Ở Huế, để biện hộ cho một sự cố nào đó xảy ra trong việc trùng tu di tích, người ta thường đưa ra khái niệm “trùng tu thích nghi”, theo giáo sư, khái niệm này là thế nào?

“Trùng tu thích nghi” có thể là một cách làm, cách ứng dụng, song theo tôi đây là một lý luận, một khái niệm hơi lạ. Sau trùng tu, có thể sử dụng công trình theo chức năng gần nhất với đời sống đương đại mà nó từng có, nhưng tuyệt đối không thể hòa nhiều chức năng trong lịch sử vào làm một để định hướng tu bổ. Không thể bắt nhiều thời kỳ quá khứ cùng hội đàm với hiện tại!

* Xin cảm ơn giáo sư.
------------------------------------------------

Giáo sư Takeshi Nakagawa hiện là giám đốc Viện Nghiên cứu di sản thế giới của UNESCO (thuộc Đại học Waseda, Nhật Bản), giám đốc Chương trình bảo vệ Angkor của Chính phủ Nhật tại Campuchia (JSA). Dự án tái thiết điện Cần Chánh được giáo sư Nakagawa tư vấn về mặt chuyên môn, đồng thời ông còn đóng vai trò quan trọng trong việc tiến cử Chính phủ Nhật tài trợ hàng chục triệu USD cho dự án.
Trong sự nghiệp bảo tồn di tích ở Huế, nhân lực và công nghệ bảo tồn, bảo quản (mà Việt Nam hay dùng là hóa nghiệm bảo quản) hiện nay đang rất thiếu. Huế vẫn chưa có những nghiên cứu cụ thể, những hiểu biết thấu đáo về sự biến chuyển của kỹ thuật các thời tại di tích Huế... do đó ý nghĩa của di sản văn hóa đã phần nào mất đi”.
------------------------------------------------

Theo THÁI LỘC thực hiện - Tuổi trẻ chủ nhật online

*****

Huế muốn vay vốn ODA để trùng tu Tử Cấm Thành (theo Đào Loan - TBKTSG 16-9-2011)

Trích đoạn:
Ông Phan Thanh Hải, Phó giám đốc Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế, cho biết, vấn đề phục hồi điện Cần Chánh đã được đặt ra từ rất lâu. Năm 1994, trung tâm đã cùng đại học Waseda Nhật Bản tiến hành việc nghiên cứu để trùng tu điện Cần Chánh và một số công trình bị hư hại trong chiến tranh.

Đến nay, việc nghiên cứu, tập hợp tư liệu đã tương đối đầy đủ. Mô hình của điện Cần Chánh theo tỉ lệ 1/50, 1/10 cũng đã được thực hiện và đang xây dựng mô hình 1/5.

Các nhà trùng tu cũng đã phục hồi điện Long Đức, một điện nhỏ trong Thái Miếu, được xây từ thời vua Gia Long, tương đương với niên đại của điện Cần Chánh, để thu thập thêm kinh nghiệm cho việc phục dựng điện Cần Chánh. Sắp tới, một điện nhỏ khác là điện Chiêu Kính, vốn cũng đã bị xóa dấu vết hoàn toàn, cũng sẽ được phục dựng để chuẩn bị cho dự án lớn này.

*****


Trích đăng chùm bài "Di tích nằm chờ ngân sách" do báo Thanh Niên Online thực hiện

Kỳ 1: Vì sao chưa phục nguyên điện Cần Chánh? (do Bùi Ngọc Long - TN - 28-8-2011)

Nằm ngay trong Tử Cấm thành triều Nguyễn tại Huế, điện Cần Chánh được xây dựng năm Gia Long thứ 3 (1804), là ngôi điện có kết cấu gỗ lớn và đẹp nhất trong hệ thống công trình kiến trúc triều Nguyễn, tồn tại suốt 13 đời vua, nhưng năm 1947 bị phá hủy hoàn toàn và đến nay vẫn chưa được trùng tu phục hồi.

Mô hình phục nguyên kết cấu hệ khung gỗ của điện Cần Chánh, kết quả hợp tác
giữa Đại học Waseda (Nhật Bản) và Trung tâm BTDTCĐ Huế - Ảnh: T.L

Công trình tiêu biểu của vương triều Nguyễn

Du khách đến với Đại nội - Huế, sau khi tham quan kiến trúc độc đáo của điện Thái Hòa, thẳng vào giữa Tả vu và Hữu vu sẽ gặp một sân gạch rộng với những vạc đồng và ngay phía sau là vị trí của điện Cần Chánh, chỉ còn lại nền móng. Những năm qua, nơi đây được dùng để tổ chức dạ nhạc tiệc trong các chương trình Đêm Hoàng cung. Điện Cần Chánh khi còn tồn tại được xem là một công trình kiến trúc tiêu biểu của vương triều nhà Nguyễn tại Hoàng cung Huế.

Điện Cần Chánh đã bị hư hại hoàn toàn chỉ còn trơ lại nền móng - Ảnh: Minh Phương

Theo Dư địa chí Thừa Thiên -Huế, Cần Chánh là ngôi điện để nhà vua tổ chức các buổi lễ thiết triều vào ngày 5, 10, 20 và 25 âm lịch hằng tháng. Ngoài ra, điện còn là nơi vua tiếp các sứ bộ quan trọng, tổ chức các buổi yến tiệc trong dịp khánh hỷ. Điện đặt trên nền cao gần 1m, bó vỉa bằng gạch vồ và đá thanh, diện tích gần 1.000m2, chính điện 5 gian, 2 chái kép, tiền điện 7 gian, 2 chái đơn. Toàn bộ khung gồm 80 chiếc cột bằng gỗ lim, phần lớn kết cấu gỗ đều được chạm trổ tinh xảo, công phu, thể hiện trình độ kỹ, mỹ thuật cao của kiến trúc truyền thống VN thế kỷ 19. Trong điện, ở gian giữa của nhà chính đặt ngự tọa, hai bên treo hai bức tranh gương thể hiện cảnh đẹp của kinh đô và bản đồ các tỉnh trong nước. Điện còn là nơi trưng bày nhiều báu vật của triều Nguyễn. Dưới thời nhà Nguyễn, điện từng được tu sửa vào các năm 1827, 1850, 1899 và đến đời vua Khải Định cho sơn thếp mới vào đầu thế kỷ 20. Năm 1947, do chiến tranh, ngôi điện này đã bị phá hủy hoàn toàn, chỉ còn lại nền móng.

*****

Kỳ 2: Trùng tu dở dang lăng vua Thiệu Trị (do Bùi Ngọc Long - TN - 30-8-2011)

Dự án đầu tư bảo tồn, tu bổ và phát huy giá trị tổng thể di tích lăng vua Thiệu Trị thuộc quần thể di tích cố đô Huế được phê duyệt từ đầu năm 2006 với thời gian thực hiện đến năm 2010, thế nhưng đến nay chỉ có một công trình ở lăng Thiệu Trị được trùng tu là điện Biểu Đức và vẫn chưa hoàn thành.

Sau gần 5 năm dự án được phê duyệt, chỉ có công trình duy nhất tại lăng Thiệu Trị
được trùng tu là điện Biểu Đức nhưng vẫn chưa hoàn thành - Ảnh: B.N.L

Lăng Thiệu Trị có tên chữ là Xương Lăng, nằm ở địa phận làng Cư Chánh, xã Thủy Bằng (thị xã Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên - Huế).

Năm 2006, Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ VH-TT-DL) đã có quyết định phê duyệt dự án đầu tư bảo tồn, tu bổ và phát huy giá trị tổng thể di tích lăng vua Thiệu Trị thuộc quần thể di tích Cố đô Huế, với tổng kinh phí dự kiến 106 tỉ đồng.

Sân gạch bung tróc và Hồng Trạch Môn xuống cấp, hư hỏng - Ảnh: B.N.L

Theo dự án, công tác trùng tu diễn ra tại 3 khu vực của lăng Thiệu Trị, gồm: khu vực lăng, sẽ tu bổ phục hồi các hạng mục công trình hồ Nhuận Trạch, hồ Ngưng Thủy, Bình Phong tiền án, hồ điện, sân chầu, Nghi môn, Hồng Trạch môn, Hữu phối điện, Tả phối điện, điện Biểu Đức, Hữu Tùng viện... Khu vực tẩm sẽ tu bổ phục hồi bình phong tiền án, hồ điện, sân khấu, Nghi Môn, Hồng Trạch môn, Hữu phối điện, Tả phối điện, điện Biểu Đức, Hữu Tùng viện... Khu vực lăng Bà sẽ tu bổ nhiều công trình kiến trúc... đồng thời, dự án cũng sẽ đầu tư xây dựng các công trình tu bổ, tôn tạo, bảo quản và bảo vệ, quản lý di tích như hệ thống phòng cháy chữa cháy, điện chiếu sáng, cung cấp nước... Theo quyết định phê duyệt, nguồn vốn đầu tư cho dự án được cấp từ ngân sách trung ương, ngân sách địa phương và các nguồn vốn khác..., thời gian thực hiện dự án từ nay đến năm 2010.

*****

Kỳ 3: Chạnh buồn bên lăng mộ vua (do Bùi Ngọc Long - Phan Quyên - TN - 31-8-2011)

Khu di tích An Lăng là nơi an táng và thờ tự của 3 vị vua triều đại nhà Nguyễn. Hiện tại khu di tích này đang xuống cấp nghiêm trọng, nhiều công trình có nguy cơ bị xóa sổ nếu không sớm có giải pháp trùng tu.

Đổ nát và bị xâm hại

Bất cứ ai đặt chân đến khu di tích An Lăng (tọa lạc ở phường An Cựu, TP Huế) hiện nay đều cảm thấy đau lòng vì sự xuống cấp đổ nát của di tích. An Lăng là di tích lịch sử cấp quốc gia (được Nhà nước công nhận năm 1995) thuộc quần thể di tích cố đô Huế, nơi chôn cất, thờ phụng ba vị vua của vương triều Nguyễn: Dục Đức, Thành Thái, Duy Tân.

Ngay cổng chính bước vào điện Long An, nhiều phiến đá trước cổng đã bị bung ra, tường bị thủng, lở nhiều đoạn. Ở khu vực bên trong chính điện, nhiều mảng tường rạn nứt, cỏ dại mọc um tùm trên những bờ tường mốc rêu. Nhiều chỗ còn được dùng làm vườn ươm, những đống gạch vụn, phế liệu được đổ ngay bên bờ tường.

Khu lăng mộ các vua Duy Tân, Thành Thái trong di tích An Lăng
xuống cấp đến đau lòng - Ảnh: Minh Phương

Phía sau điện Long An được bao bọc bởi tường thành, trước đây là chốn hậu cung của các bà vợ vua, nay là nơi an nghỉ của nhiều ông hoàng bà chúa như vợ, mẹ, anh em của vua Duy Tân cùng một số hoàng thân. Thế nhưng, giờ đây cũng bị người dân lấn chiếm, xây dựng nhà ở, phòng trọ sinh viên. Nhiều đoạn tường thành bị người dân tự ý đập phá để xây dựng công trình.

Phía bên trái là khu lăng mộ rộng gần 1 ha rơi vào cảnh hoang tàn đổ nát, hiện đang được khóa cửa và bỏ hoang. Nhiều bộ phận trang trí của cổng Tam quan (cổng chính vào lăng) bị rơi rụng. Một số di tích nhỏ gần như đã bị xóa sổ, chỉ còn lô nhô vài dấu vết cũ chứng tỏ rằng nó đã từng tồn tại. Nhà Huỳnh ốc (nhà đặt hương án thờ cúng) xiêu vẹo, bên trong phải dùng gỗ để chống đỡ bốn phía, chỉ dùng dây sắt néo và có nguy cơ sập bất cứ lúc nào. Nằm ngay cạnh khu lăng, một số công trình như: Trụ biểu bị bỏ hoang cây cối che lấp, một số lăng mộ bị “lãng quên”, đổ nát, cỏ cây mọc um tùm. Ngay phía trước lăng có ba bốn căn nhà dân lợp mái tôn tạm bợ, dù đã có kế hoạch chuyển đi nhưng đến nay vẫn đang bỏ ngỏ, người dân vẫn chịu cảnh sống "bám" bên di tích.
-----------------------------------
Khu lăng mộ 3 vua

Hiện giờ, An Lăng là khu mộ chung của ba thế hệ vua: Dục Đức (cha), Thành Thái (con), Duy Tân (cháu). Toàn bộ khu lăng mộ hình chữ nhật có diện tích 3.445m2, bên trong không có Bi đình và tượng đá. Hiện nay, trong khu di tích An Lăng còn có 42 tẩm mộ của các ông hoàng bà chúa cùng với 121 ngôi mộ đất của dòng họ Nguyễn Phước (họ vua).
-----------------------------------

*****

Kỳ 4: Hổ Quyền hoang phế (do Bùi Ngọc Long - TN - 31-8-2011)

Hổ Quyền là di tích độc đáo trong hệ thống quần thể di sản cố đô Huế, bởi đây là đấu trường voi hổ duy nhất còn sót lại. Ngoài ý nghĩa là thao trường luyện tập của voi, hổ phục vụ chiến đấu, đây còn là nơi giải trí của vua quan triều Nguyễn.

Đấu trường độc đáo

Di tích Hổ Quyền tọa lạc ở thôn Trường Đá, làng Nguyệt Biều, P.Thủy Biều, TP Huế (Thừa Thiên - Huế), về phía tây Kinh thành, được xây dựng vào năm Minh Mạng thứ 11 (1830). Kiến trúc Hổ Quyền là một đấu trường lộ thiên hình vành khăn. Vòng thành trong cao 5,90m; vòng thành ngoài cao 4,75m. Thành ngoài nghiêng một góc khoảng 10-15 độ tạo thế vững chãi kiểu chân đê. Chu vi tường ngoài Hổ Quyền là 145m, đường kính lòng chảo là 44m.

Theo ông Phạm Đức Thành Dũng - cán bộ nghiên cứu của Trung tâm bảo tồn di tích cố đô (TTBTDTCĐ) Huế, Hổ Quyền ngoài ý nghĩa là chuồng nuôi hổ, nó còn có chức năng là đấu trường của những cuộc tử chiến giữa voi và hổ.

Khán đài vua ngồi ở mặt bắc của đấu trường, được xây cao hơn so với các vị trí chung quanh và cơi nới ra sau tạo một không gian tương đối rộng. Bên trái khán đài là hệ thống bậc cấp đi lên gồm 24 cấp dành cho vua và các hoàng thân quốc thích, đại thần. Hai bên có hai hệ thống tường xây bằng gạch hoa đúc rỗng. Bên phải khán đài có một hệ thống bậc cấp khác xây tương tự dành cho quan chức và binh lính. Phía đối diện, là vị trí 5 chuồng cọp nằm ngay trong lòng đấu trường. Hai vòng tường trong và ngoài của đấu trường tạo ra vách chuồng. Giữa hai tường thành sẵn có, xây thêm các bức vách bằng gạch để tạo 5 cái chuồng riêng biệt. Hệ thống cửa ở các chuồng hổ là các cửa gỗ được đóng mở bằng cách kéo dây từ trên xuống.

Hiện tại, toàn bộ khu di tích đang xuống cấp và hoang phế. Tường thành của đấu trường nứt gãy nhiều đoạn, những bậc cấp đi lên khán đài bị bung sụt được rào chắn lại với cảnh báo nguy hiểm. Nhìn chung, toàn bộ kết cấu của đấu trường này tuy đã xuống cấp nhưng vẫn giữ được dáng vẻ khá nguyên vẹn.

Những trận đấu voi - hổ hy hữu

Theo tư liệu ghi chép lại cho biết, những trận đấu giữa voi và hổ được tổ chức sớm nhất là vào thời các chúa Nguyễn (1558 -1775). Học giả người Pháp là Pierre Poivre mô tả ông từng chứng kiến một trận đấu voi hổ vô tiền khoáng hậu dưới thời chúa Nguyễn Phúc Khoát (1750). Cuộc đấu diễn ra ở cồn Dã Viên. Chúa Nguyễn Phúc Khoát cùng với triều thần đi trên 12 chiếc thuyền để xem voi hổ đấu. Theo Pierre Poivre, đây có lẽ là trận đấu khủng khiếp và đẫm máu nhất trong lịch sử. Các khán giả đã chứng kiến từ lúc bắt đầu cho đến kết thúc, khi mà 40 con voi đã tàn sát đến con hổ cuối cùng trong số 18 con được thả ra làm vật tế thần trong ngày hội.


Dưới thời vua Gia Long, trong một trận đấu được tổ chức ở bãi đất trống phía trước kinh thành, giới hạn bằng một hàng rào lính tráng cầm khí giới đứng vòng quanh bảo vệ, một con hổ đã bứt được dây trói nhảy chồm lên tát người quản tượng rơi xuống đất và ông đã bị chính con voi do mình huấn luyện giẫm chết. Sự lồng lộn của con dã thú đã gây thương tích cho nhiều người và trở thành nỗi kinh hoàng cho tất cả khán giả.

Thời Minh Mạng cũng từng xảy ra một sự cố tương tự. Nhân ngày lễ Tứ tuần Đại khánh (mừng thọ vua 40 tuổi vào năm 1829), vua ngự thuyền rồng xem một trận thư hùng giữa voi và hổ tổ chức ở bên bờ bắc sông Hương. Trong khi giao đấu, chúa sơn lâm bứt được dây trói, lao ra và bơi về phía thuyền rồng. Giữa lúc quan binh nhốn nháo hoảng loạn, vua Minh Mạng kịp dùng con sào đẩy lùi được con vật cùng đường. Nhờ vậy, quan quân mới kịp chèo thuyền đến giết chết hổ giữa dòng sông cứu vua kịp thời.

Dưới triều Nguyễn, những trận tử chiến giữa voi và hổ thông thường mỗi năm tổ chức một lần. Trận đấu cuối cùng được tổ chức vào năm 1904 dưới triều vua Thành Thái. Đây cũng là một trận đấu hấp dẫn, đầy kịch tính được nhiều người đương thời chứng kiến và mô tả kỹ.

Có thể thấy việc tổ chức các cuộc huyết đấu giữa voi và hổ trước hết xuất phát từ nhu cầu rèn luyện tượng binh, một binh chủng rất lợi hại của quân đội xứ Đàng Trong, sau mới được nâng dần lên thành trò giải trí tiêu khiển.

*****
Kỳ 5: Văn Miếu, Võ Miếu xuống cấp (do Bùi Ngọc Long - TN - 01-9-2011)

Trong khi di sản Văn Miếu - Quốc Tử Giám Hà Nội được bảo tồn khá tốt và UNESCO đưa vào danh mục di sản tư liệu thuộc chương trình Ký ức thế giới năm 2010, thì ở Huế hai di sản Văn Miếu và Võ Miếu (còn gọi là Văn Thánh - Võ Thánh), dù ra đời muộn hơn nhưng đến nay đã xuống cấp và hoang phế.

Công trình Văn Miếu hư hỏng

Ngược dòng sông Hương, theo con đường từ chùa Linh Mụ lên thêm một đoạn chừng vài cây số là đến di tích Văn Miếu và Võ Miếu (thuộc xã Hương Hồ, H.Hương Trà, Thừa Thiên - Huế).Văn Miếu là một biểu tượng độc đáo của nền giáo dục VN trong giai đoạn vương quyền phong kiến thống trị. Việc lập Văn Miếu và dựng bia tiến sĩ nhằm nhắc lại cụ thể sự tôn trọng việc học, đề cao nhân tài của đất nước và những truyền thống tốt đẹp của dân tộc.

Theo tài liệu của Trung tâm bảo tồn di tích cố đô (BTDTCĐ) Huế, trong thời kỳ các chúa Nguyễn mở mang khai phá phương Nam, Văn Miếu cũng được thiết lập ở Phú Xuân và được xem như Văn Miếu riêng của Đàng Trong, nhưng không rõ thời điểm xây dựng, chỉ biết địa điểm tại làng Triều Sơn. Đến năm Canh Dần (1770), dưới triều của Định Vương Nguyễn Phúc Khoát, Văn Miếu được dời đến xã Long Hồ. Đến khi nhà Nguyễn gây dựng cơ đồ, Văn Miếu chính thức mới được xây dựng vào năm 1808 dưới triều vua Gia Long, ở địa điểm hiện nay.

Khi còn nguyên vẹn, nơi đây có gần 20 công trình lớn như: Văn Miếu (điện thờ), Đông vu, Tây vu, Thần trù, Thần khố, Hữu Văn đường, Duỵ Lễ đường, nhà Thổ Công, Đại Thành môn, Văn Miếu môn, Quan Đức môn, Linh Tinh môn, La thành, bến vua ngự...

Tại Văn Miếu, hiện có hai dãy gồm 32 tấm bia, khắc tên 293 vị tiến sĩ triều Nguyễn, bắt đầu từ khoa thi đầu tiên năm Minh Mạng thứ 3 (1822) đến khoa thi cuối cùng vào năm Khải Định thứ 4 (1919).

Võ Miếu hoang phế

Ngay sát bên Văn Miếu là Võ Miếu cũng đang trong tình trạng hoang phế, nhiều công trình đã bị xóa sổ hoàn toàn. Vào năm 1835 dưới thời Minh Mạng, theo kiến nghị của Bộ Lễ, triều đình chuẩn y cho xây dựng Võ Miếu nhằm thể hiện sự chú trọng đến giáo dục quân sự và đề cao nghiệp võ.

Bên cạnh Văn Miếu, Võ Miếu đã hoang phế hoàn toàn chỉ còn lại vài công trình
 mục nát và 5 tấm bia đá trơ giữa nắng mưa - Ảnh: B.N.L

Võ Miếu được khởi công xây dựng từ tháng 9 năm Ất Mùi (1835) phía bên trái Văn Miếu, trước mặt là sông Hương. Với chu vi khoảng 400m, cấu trúc Võ Miếu cũng không cầu kỳ, gồm một miếu chính theo kiểu trùng thiềm điệp ốc, phía trước có xây 2 nhà phụ gọi là Tả vu và Hữu vu đối diện nhau. Chung quanh có xây thành bao bọc, phía ngoài thành có nhà Tể sinh - là nơi giết súc vật khi tổ chức cúng tế. Năm 1839 (Minh Mạng thứ 20), triều đình cho dựng ba tấm bia Võ Công ở trước sân Võ Miếu. Những tấm bia này ghi tên những danh tướng đã đóng góp nhiều chiến công trong hai triều vua Gia Long và Minh Mạng như: Trương Minh Giảng, Phạm Hữu Tâm, Tạ Quang Cự, Nguyễn Xuân, Phạm Văn Điển... Về sau, còn có hai tấm bia ghi tên những tiến sĩ đỗ trong 3 khoa thi võ dưới thời Tự Đức: 1. khoa Ất Sửu (1865), 2. khoa Mậu Thìn (1868), 3. khoa Kỷ Tỵ (1869). Võ Miếu là nơi thờ các danh tướng VN như: Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Hữu Dật, Tôn Thất Hội... Về hình thức, việc lập Võ Miếu nhằm tạo ra một sự đăng đối so với Văn Miếu. Võ Miếu được triều Nguyễn lập ra cũng để tôn vinh những công thần đã đóng góp nhiều công lao cho triều đại, mục đích động viên những người theo đòi võ nghiệp mong lập được chiến tích để lưu danh muôn thuở.

Hiện trạng của di tích Võ Miếu chỉ còn lại miếu chính là ngôi nhà rường mục nát, có 5 án thờ bên trong, một ngôi nhà khác kế bên hoang phế. Vị trí đặt 5 tấm bia hiện đã không còn nhà bia chỉ trơ lại 5 tấm bia đá phơi nắng mưa.
---------------------------------------

Ngày 7.6.2010, Thủ tướng Chính phủ đã có quyết định (số 818/QĐ-TTg) phê duyệt đề án Điều chỉnh quy hoạch bảo tồn và phát huy giá trị di tích cố đô Huế giai đoạn 2010 - 2020. Theo đó, UBND tỉnh Thừa Thiên - Huế cũng đã có kế hoạch (số 35/KH-UBND ngày 13.5.2011) triển khai thực hiện đề án, với mục tiêu: cơ bản, đến năm 2020 phục hồi hoàn nguyên toàn khu vực Đại Nội theo kiến trúc Hoàng thành trước kia; Cải thiện, tôn tạo cảnh quan thiên nhiên khu vực kinh thành, các lăng tẩm và các công trình thuộc quần thể di tích cố đô Huế; Xây dựng hoàn chỉnh cơ sở hạ tầng những điểm di tích; Di dời các hộ dân ra khỏi khu vực khoanh vùng bảo vệ di tích; Nghiên cứu phục hồi và phát huy giá trị văn hóa phi vật thể; Tổ chức bảo tồn các ngành nghề truyền thống, phục chế các loại vật liệu truyền thống và bồi dưỡng đào tạo lực lượng nghệ nhân đang có nguy cơ thất truyền nhằm phục vụ tốt cho công cuộc bảo tồn giá trị di sản văn hóa Huế.

---------------------------------------

*****

Hoang phế di tích hồ Tịnh Tâm ở Cố đô Huế (do Quốc Việt - Vietnamplus - 05-9-2011)

Trích đoạn:

Theo sử liệu, hồ Tịnh Tâm có bình diện hình chữ nhật, chu vi gần 1.500 m, trên hồ có ba hòn đảo Bồng Lai, Phương Trượng và Doanh Châu. Hồ Tịnh Tâm được ngăn cách với bên ngoài bằng một vòng tường gạch. Bốn mặt có bốn cửa gồm cửa Hạ Huân ở phía nam, cửa Đông Hy ở phía bắc, cửa Xuân Quang ở phía đông và cửa Thu Nguyệt ở phía tây. Xung quanh các đảo trên hồ và dọc bờ hồ đều trồng các loại liễu trúc và các thứ hoa cỏ lạ, dưới hồ trồng sen trắng.

Đảo Bồng Lai ở phía nam hồ Tịnh Tâm, dẫn đến đảo bằng cầu Hồng Cừ, chính giữa có điện Bồng Doanh. Điện có kiến trúc 3 gian 2 chái, mái trùng diêm, lợp ngói Hoàng lưu ly, điện xây mặt về hướng nam, có lan can gạch bao quanh, phía trước có cửa Bồng Doanh, cầu Bồng Doanh nối đảo với bờ hồ phía nam. Phía đông điện Bồng Doanh có nhà Thủy tạ Thanh Tâm, quay mặt về hướng đông.

Phía tây điện có lầu Trừng Luyện, quay mặt về hướng tây. Phía bắc là cửa và một cây cầu mang tên Hồng Cừ. Đảo Phương Trượng giữa có gác Nam Huân, quay mặt về hướng nam, 2 tầng, mái lợp ngói hoàng lưu ly. Phía nam có cửa Bích Tảo và cầu Bích Tảo. 

Phía bắc đảo có lầu Tịnh Tâm, quay mặt hướng bắc. Phía đông có nhà Hạo Nhiên (năm 1848 đổi thành Thiên Nhiên), quay mặt về hướng đông. Phía tây có hiên Dưỡng Tính quay mặt về hướng tây. Giữa hai đảo có đình Tứ Đạt nằm giữa một hệ thống hành lang mái lợp ngói gồm 44 gian, chạy nối vào cầu Bích Tảo ở phía nam và cầu Hồng Cừ ở phía bắc.

Đảo Doanh Châu giữa hồ Tịnh Tâm có đê Kim Oanh nối liền từ bờ đông qua bờ tây. Phía đông đê có cầu Lục Liễu, 3 gian, mái lợp ngói. Phía nam đê gắn với một hành lang dài 56 gian, ở giữa là cầu Bạch Tần. Phía nam cầu có nhà tạ Thanh Tước để thuyền vua ngự. 

Ở đoạn cuối phía tây của hành lang lại có nhà Khúc Tạ, thông với một nhà tạ khác là Khúc Tạ Hà Phong qua một hành lang nhỏ dựng trên mặt nước. Phía nam nhà tạ này là đảo Doanh Châu. Với kiểu kiến trúc cầu kỳ, tinh mỹ, hài hòa với tự nhiên, hồ Tịnh Tâm được xem là một thành tựu tiêu biểu của nghệ thuật kiến trúc cảnh quan Việt Nam thế kỷ 19.

Hồ Tịnh Tâm phủ đầy rau muống. Chiếc cầu ra đảo Phương Trượng
giữa hồ mục nát gẫy sập trông rất mất mỹ quan. (Ảnh: Anh Tuấn/TTXVN)

Tuy đã có đề án khôi phục hồ nhưng từ bấy đến nay, di tích Tịnh Tâm ngày càng bị xuống cấp do không có sự tu bổ và quản lý chặt chẽ của cơ quan chức năng. Hồ nay chỉ còn là một "phế tích" được dùng làm nơi trồng sen và rau muống.

Do không có sự tu bổ nên di tích trên ba hòn đảo Bồng Lai, Phương Trượng và Doanh Châu đã xuống cấp một cách trầm trọng. Nhiều trụ đá di tích nằm nghiêng ngả và vỡ nát. Trên mỗi đảo, cỏ mọc tràn lan như bãi đất hoang, trở thành sân bóng của nhiều trẻ em.

Cây cầu dẫn vào đảo đã hư hỏng nặng, nhiều chỗ gãy nếu không chú ý có thể sẽ bị lọt chân xuống. Mặc dù đã có hàng rào chắn nhưng nhiều người dân vẫn vượt rào vào câu cá, xe đạp để ngổn ngang trên cầu. Khi vào trong đảo có một số giếng nước cổ bị bỏ hoang, dễ gây tai nạn cho du khách. Mặt hồ đã trở thành một đầm lầy để cho các hộ dân canh tác rau muống, nhiều cọc tre cắm xuống hồ, tạo nên cảnh khó coi, gây phản cảm cho du khách.

Mang danh nghĩa là hồ nhưng ở Tịnh Tâm bây giờ bùn đất nhiều hơn là nước, nhiều chỗ bị bồi lấp nặng nề. Đến đây, không ai có thể nhận ra và nghĩ rằng hồ Tịnh Tâm vốn đã từng là Ngự Uyển của vua Nguyễn./.

*****

Thăm nhà hát cổ xưa nhất Việt Nam (Theo Maskonline - tin nhanh Việt Nam - 23-9-2011)

Ít người biết rằng nằm ngay giữa hoàng thành Huế lại có một nhà hát quốc gia được xem là cổ nhất ở Việt Nam.

Duyệt Thị Đường được xây dựng vào năm Minh Mạng thứ 7 (1826) đến nay đã gần 200 năm. Vào thế kỷ XVII, XVIII các quốc khách đến thăm Việt Nam, sau những buổi yến tiệc họ đều được xem hát tuồng. Nhưng mãi đến thời Minh Mạng mới xây dựng một nhà hát tuồng của Quốc gia nằm ngay trong khuôn viên Đại nội Huế.

1266448211_210911DLAfamilyduyetthiduong4_b610f
Cổng vào Duyệt thị đường.
1794330262_210911DLAfamilyduyetthiduong3_d8568
Nhà hát nằm giữa đại nội Huế với phong cách kiến trúc độc đáo.

Ngày xưa các bậc vua quan vừa xem hát vừa tiệc tùng, vừa chữa bệnh cho nên bên phải là Ngự y viện, nơi để sao chế thuốc chữa bệnh cho vua và hoàng gia. Bên trái là sở Thượng Thiện, nơi dùng để chế biến các món ăn phục vụ nhà vua. Tất cả đều được ngăn với nhà hát bằng một bức tường.

534788484_210911DLAfamilyduyetthiduong2_a4085
Đỉnh đồng và đôi rồng sững sững trước sân.
1530834468_210911DLAfamilyduyetthiduong6_6e6bb
Cột đèn có dáng dấp của kiến trúc phương Tây.

Nhà hát có chiều cao 12m, gồm 2 tầng, nội thất được làm bằng gỗ lim. Sân khấu là phần sàn nhà nằm giữa bốn gian, khi diễn thì trải chiếu hoa lên. Trần nhà hát được trang trí hình ảnh các vì tinh tú, những đám mây ngũ sắc, vầng trăng khuyết, nền trời xanh rất đẹp, tạo cho người diễn cũng như người xem có cảm giác như đang ở ngoài trời, ở giữa cuộc đời.

Đây không chỉ là nơi tấu những bản nhạc cung đình, mà còn trình diễn nhiều loại hình nghệ thuật khác như,: tuồng, kịch hát, ca Huế theo yêu cầu và sở thích của nhà vua. Mặc dù sau này còn có thêm ba nhà hát nữa được xây dựng, nhưng Duyệt Thị Đường vẫn được các vua Nguyễn kế tiếp nhau tu bổ, tôn tạo để làm nơi trình diễn các loại hình nghệ thuật, nơi biểu diễn chiêu đãi sứ thần các nước khi đến Việt Nam.

853916158_210911DLAfamilyduyetthiduong1_7ef32
Duyệt Thị Đường đã hồi sinh trở lại với mái ngói lưu ly, cột sơn son thiếp vàng...
757891125_210911DLAfamilyduyetthiduong5_6413e
...sân khấu, hậu trường, khán phòng mang dáng xưa.

Trải qua gần 200 năm, dưới sự tác động của thiên nhiên khắc nghiệt và sự tàn phá của chiến tranh cũng như con người, nhà hát Duyệt Thị Đường đã gánh chịu nhiều hư hỏng nặng nề và đã được trùng tu, sửa chữa nhiều lần.Từ năm 2004, Duyệt Thị Đường được Trung tâm Bảo tàng Di tích Cố đô Huế đưa vào hoạt động nhiều loại hình nghệ thuật truyền thống Huế, đặc biệt là nhã nhạc cung đình Huế, di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại.

1928812140_210911DLAfamilyduyetthiduong7_ca8b7
Phó thủ tướng Phạm Gia Khiêm cùng các Ngoại trưởng các nước ASEAN
chụp ảnh lưu niệm cùng các nghệ sĩ cung đình.

Đến thăm nhà hát Duyệt Thị Đường, bạn không chỉ được chiêm ngưỡng một công trình mang phong cách kiến trúc độc đáo mà còn được thưởng thức những màn biểu diễn nhã nhạc đặc sắc. Hiện tại nhà hát đã sưu tầm và khôi phục được 8 trong số 11 điệu múa cổ cùng với 40 bài nhã nhạc được dàn dựng hết sức công phu và nhiều trích đoạn tuồng nổi tiếng cũng đã được phục dựng để phục vụ du khách.